一七令
天古鬼人
天
有道, 無邊
除性惡, 養心賢
死生由命, 離合隨緣
世上不生業, 雲間莫問仙
若得無求無怨, 必成自我自然
前身幾度抽刀斬, 後日何人高枕眠。
Thiên
Hữu đạo, vô biên
Trừ tính ác, dưỡng tâm hiền
Tử sinh do mệnh, ly hợp tuỳ duyên
Thế thượng bất sinh nghiệp, vân gian mạc vấn tiên
Nhược đắc vô cầu vô oán, Tất thành tự ngã tự nhiên
Tiền thân kỷ độ trừu đao trảm, Hậu nhật hà nhân cao chẩm miên.
Trời
Có đạo, vô biên
Trừ diệt tính ác, nuôi dưỡng tâm hiền
Sống chết do số mệnh, tan hợp tuỳ cơ duyên
Ở đời không gây nghiệp chướng, trên mây chẳng cậy thần tiên
Nếu đạt được không đòi hỏi không oán hận, tất trở thành tự thân mình hợp tự nhiên
Kiếp trước bao lần vung đao chém (làm việc ác), ngày sau ai người gối cao đầu ngủ ngon?
古
三生, 一步
多少愁, 短長苦
目前有門, 心中無路
愚夫人不爭, 賢士天還妒
策捲獨臥草床, 碑枕孤眠石墓
千載悠悠轉白經, 十輪念念傾黃土。
Cổ
Tam sinh, nhất bộ
Đa thiểu sầu, đoản trường khổ
Mục tiền hữu môn, tâm trung vô lộ
Ngu phu nhân bất tranh, hiền sĩ thiên hoàn đố
Sách quyển độc ngoạ thảo sàng, bi chẩm cô miên thạch mộ
Thiên tải du du chuyển bạch kinh, thập luân niệm niệm khuynh hoàng thổ.
(Từ) Cổ xưa
Trải ba kiếp (kiếp trước, kiếp này, kiếp sau), (chỉ như) một bước đi
Bao nhiều sầu, bấy nhiêu khổ
Cửa đang ở trước mắt, mà trong lòng không thấy lối
Kẻ ngu chẳng anh tranh ghét, nhưng người hiền trời lại đố kỵ
Cuộn quyển thẻ tre lại nằm một bình trên giường cỏ, gối đầu lên bia đá ngủ cô đơn trong lòng mộ đá
Ngàn năm khôn cùng xoay chuyển quyển kinh trắng (không chữ), mười vòng luân hồi niệm niệm (kinh) nghiêng ngửa cả mặt đất.
鬼
千魔, 百魅
恣如風, 柔似水
墨默無言, 萋凄不睡
惑影酌人迷, 幻生邀客醉
舉盃棄劃神忪, 回首拂冠聖畏
抱月玄靈竹下酣, 聞琴白骨詩中跪。
Quỷ
Thiên ma, bách mị
Tứ như phong, nhu tự thuỷ
Mặc mặc vô ngôn, thê thê bất thuỵ
Hoặc ảnh chước nhân mê, huyễn sinh yêu khách tuý
Cử bôi khí hoạch thần chung, hồi thủ phất quan thánh uý
Bão nguyệt huyền linh trúc hạ hàm, văn cầm bạch cốt thi trung quỵ.
Quỷ
Nghìn ma, trăm quỷ
Phóng túng như gió, mềm dẻo như nước
Mực đen lặng im chẳng nói một lời, Cỏ xanh lạnh lẽo thê lương không ngủ
Hình ảnh mê hoặc chuốc cho người ta mê muội, Cuộc đời huyễn hoặc khiến cho khách say sưa
Ta nâng chén quẳng bút khiến cho thần cũng khiếp đảm, quay đầu phất mũ làm cho thánh cũng hãi hùng
Linh hồn u ám ôm trăng uống say sưa dưới rừng trúc, bộ xương trắng nghe thấy tiếng đàn cầm mà quỳ luỵ trong ý thơ.
人
宿命, 寄塵
看仙鏡, 見俗身
財如流水, 名似浮雲
生前居陋屋, 死後入金墳
何事覓愁濁世, 幾時醉飲涼春
睡落梦场未化蝶, 醒來桑陌已成薪。
Nhân
Túc mệnh, ký trần
Khan tiên kính, kiến tục thân
Tài như lưu thuỷ, danh tự phù vân
Sinh tiền cư lậu ốc, tử hậu nhập kim phần
Hà sự mịch sầu trọc thế, kỷ thời tuý ẩm lương xuân
Thuỵ lạc mộng trường vị hoá điệp, tỉnh lai tang mạch dĩ thành tân.
Kiếp người
Ở trọ trong số mệnh, gửi thân vào cõi trần
Nhìn vào mảnh gương tiên, thấy thân xác ta phàm tục
Tiền tài như dòng nước chảy cuộn, danh vọng tựa vầng mây chìm nổi
Khi còn sống thì ở trong căn nhà thô xấu, lúc chết rồi lại xuống ngôi mộ bằng vàng
Việc gì cứ tự tìm lấy sầu trong cuộc đời ô trọc này, đâu được mấy lần say uống chén xuân tươi
Say ngủ trong giấc mộng vẫn chưa kịp hoá bướm, thì tỉnh dậy thấy ruộng dâu nay đã biến thành củi khô.
天古鬼人
天
有道, 無邊
除性惡, 養心賢
死生由命, 離合隨緣
世上不生業, 雲間莫問仙
若得無求無怨, 必成自我自然
前身幾度抽刀斬, 後日何人高枕眠。
Thiên
Hữu đạo, vô biên
Trừ tính ác, dưỡng tâm hiền
Tử sinh do mệnh, ly hợp tuỳ duyên
Thế thượng bất sinh nghiệp, vân gian mạc vấn tiên
Nhược đắc vô cầu vô oán, Tất thành tự ngã tự nhiên
Tiền thân kỷ độ trừu đao trảm, Hậu nhật hà nhân cao chẩm miên.
Trời
Có đạo, vô biên
Trừ diệt tính ác, nuôi dưỡng tâm hiền
Sống chết do số mệnh, tan hợp tuỳ cơ duyên
Ở đời không gây nghiệp chướng, trên mây chẳng cậy thần tiên
Nếu đạt được không đòi hỏi không oán hận, tất trở thành tự thân mình hợp tự nhiên
Kiếp trước bao lần vung đao chém (làm việc ác), ngày sau ai người gối cao đầu ngủ ngon?
古
三生, 一步
多少愁, 短長苦
目前有門, 心中無路
愚夫人不爭, 賢士天還妒
策捲獨臥草床, 碑枕孤眠石墓
千載悠悠轉白經, 十輪念念傾黃土。
Cổ
Tam sinh, nhất bộ
Đa thiểu sầu, đoản trường khổ
Mục tiền hữu môn, tâm trung vô lộ
Ngu phu nhân bất tranh, hiền sĩ thiên hoàn đố
Sách quyển độc ngoạ thảo sàng, bi chẩm cô miên thạch mộ
Thiên tải du du chuyển bạch kinh, thập luân niệm niệm khuynh hoàng thổ.
(Từ) Cổ xưa
Trải ba kiếp (kiếp trước, kiếp này, kiếp sau), (chỉ như) một bước đi
Bao nhiều sầu, bấy nhiêu khổ
Cửa đang ở trước mắt, mà trong lòng không thấy lối
Kẻ ngu chẳng anh tranh ghét, nhưng người hiền trời lại đố kỵ
Cuộn quyển thẻ tre lại nằm một bình trên giường cỏ, gối đầu lên bia đá ngủ cô đơn trong lòng mộ đá
Ngàn năm khôn cùng xoay chuyển quyển kinh trắng (không chữ), mười vòng luân hồi niệm niệm (kinh) nghiêng ngửa cả mặt đất.
鬼
千魔, 百魅
恣如風, 柔似水
墨默無言, 萋凄不睡
惑影酌人迷, 幻生邀客醉
舉盃棄劃神忪, 回首拂冠聖畏
抱月玄靈竹下酣, 聞琴白骨詩中跪。
Quỷ
Thiên ma, bách mị
Tứ như phong, nhu tự thuỷ
Mặc mặc vô ngôn, thê thê bất thuỵ
Hoặc ảnh chước nhân mê, huyễn sinh yêu khách tuý
Cử bôi khí hoạch thần chung, hồi thủ phất quan thánh uý
Bão nguyệt huyền linh trúc hạ hàm, văn cầm bạch cốt thi trung quỵ.
Quỷ
Nghìn ma, trăm quỷ
Phóng túng như gió, mềm dẻo như nước
Mực đen lặng im chẳng nói một lời, Cỏ xanh lạnh lẽo thê lương không ngủ
Hình ảnh mê hoặc chuốc cho người ta mê muội, Cuộc đời huyễn hoặc khiến cho khách say sưa
Ta nâng chén quẳng bút khiến cho thần cũng khiếp đảm, quay đầu phất mũ làm cho thánh cũng hãi hùng
Linh hồn u ám ôm trăng uống say sưa dưới rừng trúc, bộ xương trắng nghe thấy tiếng đàn cầm mà quỳ luỵ trong ý thơ.
人
宿命, 寄塵
看仙鏡, 見俗身
財如流水, 名似浮雲
生前居陋屋, 死後入金墳
何事覓愁濁世, 幾時醉飲涼春
睡落梦场未化蝶, 醒來桑陌已成薪。
Nhân
Túc mệnh, ký trần
Khan tiên kính, kiến tục thân
Tài như lưu thuỷ, danh tự phù vân
Sinh tiền cư lậu ốc, tử hậu nhập kim phần
Hà sự mịch sầu trọc thế, kỷ thời tuý ẩm lương xuân
Thuỵ lạc mộng trường vị hoá điệp, tỉnh lai tang mạch dĩ thành tân.
Kiếp người
Ở trọ trong số mệnh, gửi thân vào cõi trần
Nhìn vào mảnh gương tiên, thấy thân xác ta phàm tục
Tiền tài như dòng nước chảy cuộn, danh vọng tựa vầng mây chìm nổi
Khi còn sống thì ở trong căn nhà thô xấu, lúc chết rồi lại xuống ngôi mộ bằng vàng
Việc gì cứ tự tìm lấy sầu trong cuộc đời ô trọc này, đâu được mấy lần say uống chén xuân tươi
Say ngủ trong giấc mộng vẫn chưa kịp hoá bướm, thì tỉnh dậy thấy ruộng dâu nay đã biến thành củi khô.
Tác giả : CỔ Dã Tử
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét