Go to read at this Host :
http://www.anymanga.com/hayate-the-combat-butler/
I'm not the uploader , I just want to share this in my blog so that every one can read :D
And again , post it for future use :D
Thứ Tư, 30 tháng 6, 2010
Thứ Sáu, 14 tháng 5, 2010
Exercises to Increase your Height Naturally
http://girishk.com/2007/05/06/excercises-to-increase-your-height-naturally-part-1/
http://girishk.com/2007/05/20/exercises-to-increase-your-height-naturally-part-2/
http://girishk.com/2007/09/12/exercises-to-increase-your-height-naturally-part-3/
http://girishk.com/2007/09/25/increase-your-height-excercises-to-lengthen-your-spine-part-4/
Credit to original owner
Post for future use :D
http://girishk.com/2007/05/20/exercises-to-increase-your-height-naturally-part-2/
http://girishk.com/2007/09/12/exercises-to-increase-your-height-naturally-part-3/
http://girishk.com/2007/09/25/increase-your-height-excercises-to-lengthen-your-spine-part-4/
Credit to original owner
Post for future use :D
Thứ Hai, 26 tháng 4, 2010
Step Mania Source
http://www.energylabs.com.br/sm/?dir=Pump%20It%20Up/Simfiles/4-Special%20Zone/Special%20Zone%20PIU%20New%20Xenesis
:">
Again , saving websites for future use . I'm not the original poster .
:">
Again , saving websites for future use . I'm not the original poster .
Thứ Năm, 22 tháng 4, 2010
Canon In D
http://softvnn.com/forum/showthread.php?s=fd55a23df988db6a7ff1e90589d5750f&t=140022
Just save this link for future use :">
Credit by original poster in the link , I'm not the original poster :">
Just save this link for future use :">
Credit by original poster in the link , I'm not the original poster :">
Thứ Hai, 15 tháng 2, 2010
Thứ Sáu, 29 tháng 1, 2010
increase height
http://health.ezineseeker.com/tips-to-increase-your-height-77363104dfe.html
http://health.ezineseeker.com/ways-to-increase-height-142d41a114.html
http://health.ezineseeker.com/ways-to-increase-height-142d41a114.html
Thứ Sáu, 15 tháng 1, 2010
Mot So Truyen Ngan cua Lam Ngu Duong
Trăm Năm Cay Đắng
Phủ Khai Phong có con gái của quan Khâm sai đại thần họ Trương, tên là Trương Mỹ Lan, Mỹ Lan có sắc đẹp của một tuyệt thế giai nhân. Cha nàng, quan Khâm sai đại thần lúc bấy giờ giữ chức Đại pháp quan, thay mặt vua trông coi việc hình pháp, pháp luật cho tất cả các tỉnh miền Bắc, trong đó có phủ Khai Phong, đó cũng là nơi chôn rau cắt rốn của giòng họ Trương.
Quan đại thần họ Trương là một ông quan nghiêm nghị, có một chút hà khắc, nhưng ông rất thương Mỹ Lan, ngoài ra đối với tông tộc họ hàng, ông có phần châm chế. Bà vợ ông thì nắm toàn quyền cơ ngơi trong nhà. . .
Một ngày kia, Trương phu nhân , nhân về thăm quê có dẫn về một người cháu, người này, vì nhà quá nghèo, không có thể tiến thân, tên là Trương Phố, mười sáu tuổi, anh hơn Mỹ Lan hai tuổi lại là vai anh.
Thấy Trương Phố là một thanh niên tuấn tú, lại ăn nói nho nhã nên cả đại gia đình, kể cả gia nhân trong phủ, ai cũng quý mến.
Riêng đối với Mỹ Lan, Trương Phố đã quý mến người em khả ái này từ khi chàng mới bước chân về phủ. . .Hai người chơi với nhau rất là thân mật.
Khi Trương Phố mới về, phu nhân có ý tin tưởng, bà nghĩ rằng, dù sao, chàng cũng là người trong gia tộc cho nên phu nhân đã chỉ định chàng làm quản gia.
Nhưng, phàm đã làm chức ấy, thì phải nghiêm khắc với con ăn người ở. Đằng này, vốn tính nhu hòa, chàng cứ để mặc ai muốn làn gì thì làm. Hình như trong suốt thời gian phu nhân giao việc, cậu không hề la mắng, hay trừng phạt một ai. Cửa nhà vì thế mà buông lỏng.
Phu nhân nói với chồng:
- Ông xem đó, từ ngày nó làm quản gia, trong ngoài đều lỏng lẻo. Tôi cũng muốn giúp nó đấy chứ, nhưng tính nết như thế. . .
Quan Khâm sai chau mày:
- Nó không làm được, thì cho nó ra coi vườn.
Thế là cậu Trương nhà ta lại phải đi coi vườn ! Coi năm ba người làm vườn, nhưng cậu ta lại rất thích thú, cậu cảm thấy cậu gần gũi thiên nhiên hơn. Có những buổi tối, cậu nằm trên cái chõng tre nghe tiếng côn trùng kêu ra rả khắp vườn, cậu sung sướng trầm mình trong hoa chanh, hoa bưởi. Ban ngày, cậu lấy những cục than vẽ những hình người, hình cảnh vật trên những tấm gỗ. Chẳng ai dạy chàng cả, nhưng những nét vẽ của chàng rất sống động. Chàng còn lấy đất sét nặn những hình tượng rất có hồn.
Mỹ Lan thường đứng nhìn chàng vẽ, chàng nặn. Có khi còn đứng cả hàng giờ để nghe chàng Trương kể chuyện. Tình cảm của đôi nam thanh nữ tú càng ngày càng keo sơn gắn bó.
Cho đến một hôm, Phu nhân hỏi lão quản gia:
- Nhà ngươi có thấy Tiểu thư đâu không? Sao đôỉ này ta đi ngang qua thư phòng, ít gặp tiểu thư quá vậy.
Lão quản gia thưa:
- Bẩm phu nhân, Tiểu thư ở dưới vườn. Cô thường xuống đó trò chuyện với Trương công tử.
Phu nhân chau mày:
- Nhà ngươi mời Tiểu thư về đây gặp ta.
Mỹ Lan nhẩy những bước chân sáo lên tiền sảnh, thấy vẻ mặt của mẹ không vui, nàng chột dạ:
- Thưa mẹ gọi con.
Phu nhân nói ngay:
- Ta muốn từ nay, con không được xuống vườn nữa ! Chỗ ấy là chỗ của kẻ ăn người làm.
Mỹ Lan chu mỏ :
- Nhưng anh Trương Phố là anh con mà, anh đâu có phải . . .
Phu nhân gắt:
- Chuyện đó lẽ ra mẹ đã phải cho con biết lâu rồi, nam nữ thọ bất thân. Từ nay ta cấm chỉ.
Nói xong phu nhân đứng dậy, bà quay ngoắt vào trong để lại cho những giòng nước mắt của Mỹ Lan cứ thế tuôn trào. . .
Từ hôm đó, giờ khắc trôi qua đối với Mỹ Lan lẫn Trương Phố là những khoảnh khắc dài đằng đẳng. Cả hai người đã biết rằng có một thứ tình cảm, khác hẳn với tình anh em đã len lén đi vào hai trái tim, nó như những chiếc rễ, bám chặt vào tâm hồn của nhau rồi.
Một hôm, lợi dụng lúc phu nhân vắng nhà. Mỹ Lan chạy xuống vườn, thấy Trương đang cặm cụi nặn những hình nhân bằng đất sét. Nàng phụng phịu:
- Anh có nhớ em không? Sao anh cứ mải mê nặn với vẽ như thế?
Trương Phố chỉ những bức tượng to nhỏ:
- Lan hãy xem, những bức tựơng này giống ai?
Mỹ Lan ngỡ ngàng, nàng nhận ra dưới tấm ván kia, có vô số Mỹ Lan, khuôn mặt, hình dáng đều giống nàng. . .
Cho đến một hôm. Trương Phố lên thưa với phu nhân:
- Thưa nãi nãi, con đã kiếm được một chỗ học nghề!
Phu nhân hỏi:
- Nghề gì?
Trương Phố thưa:
- Con đã xin được chỗ học nghề thợ ngọc tại một tiệm rất danh tiếng. Xin cô chú cho phép?
Phu nhân gật đầu bằng lòng, bà thấy trong lòng bà như nhẹ hẳn đi, bà không muốn sự hiện diện của cái gai này trước mặt bà nữa.
Thế là từ đó, sáng đi đến chiều tối mịt, Trương Phố mới về nhà. Mỹ Lan thì càng ngày càng buồn, nàng chỉ mong cho đến tối, để được đứng trên lầu nhìn xuống, nơi góc vườn kia, có một trái tim đang hướng về nàng. Có những đêm, nhớ Trương quá, nàng chạy đại xuống vườn. Hai người chỉ kịp nói vài câu bâng quơ, rồi như đã bị tiếng ho của ông quản gia nhắc nhở. Họ buông nhau ra, nuối tiếc. . .
Chuyện ấy lại đến tai phu nhân
- Đêm hôm qua, con lại xuống vườn làm chi?
Mỹ Lan cúi đầu không trả lời.
Phu nhân gạt phăng khay trà xuống đất. Một tiếng Ộ XoảngỢ khô khốc vang lên. Mỹ Lan chờ cơn thịnh nộ của mẹ.
Phu nhân cầm chiếc quạt uy quyền chỉ vào mặt con gái:
- Con đã không làm theo lời mẹ dặn. Con phải nhớ, con đã lớn lắm rồi. Ta không muốn nói chuyện này với cha. Con hãy liệu thần hồn. . .
Rồi vào một đêm kia, Cái đêm hôm ấy,. Đất trời hôm ấy đã mãi mãi nằm gọn trong ký ức của hai kẻ yêu nhau. .
Mỹ Lan nằm mãi mà vẫn không ngủ được, dưới kia, chỉ ngay dưới kia thôi, người yêu của nàng giờ đây đang làm gì nhỉ. Nàng cứ thắc mắc mãi một câu hỏi đơn giản như thế. Tiếng dế kêu não lòng, rồi ánh trăng gợi tình ỏng ẻo chiếu qua cửa sổ thôi thúc. Ộ giờ này, lão bõ đã ngủ rồiỢ. Nàng dón dén đi xuống. . .
Bóng trăng sao vằng vặc trên trời, sương lạnh lòa xòa mặt đất. Tiếng Trương Phố như có hơi ấm:
- Anh nhớ em vô cùng, Lan ơi!
- Em cũng nhớ anh lắm, nhớ như chưa từng nhớ một vật gì trên thế gian này như vậy, nhưng mẹ nghiêm khắc lắm. . Mà sao anh cứ nhìn em đăm đăm như vậy kìa?
Trương Phố nhìn lên bầu trời:
- Người ta bảo chị Hằng đẹp lắm, anh đang tìm chị để so sánh xem, giữa em và nàng ấy ai đẹp hơn ai?
- Em sợ lắm, em sợ mẹ biết em xuống dưới này. . .
Trương Phố ôm lấy đôi vai gầy của Mỹ Lan, lời nói ấm áp như tiếng gió đang đi trên những mảng sương:
- Nếu như sáng mai anh phải ra pháp trường mà tối nay, anh được ôm em như thế này, anh cũng bằng lòng.
Mỹ Lan bật khóc:
- Anh cũng biết rằng, chúng ta là anh em họ, không thể lấy nhau. . .
Trương Phố kéo nàng vào lòng:
- Nhưng con tim của hai đứa mình đã thuộc về nhau rồi. . . Chúng đã lấy nhau rồi! Anh yêu em, anh không thể sống thiếu em. . .
Chàng dụi mặt vào mặt nàng, vào cổ nàng, rồi vòng tay ôm chặt lấy tấm thân mềm mại nhưng nóng hổi của nàng. . .
Người con gái mất hẳn nỗi lo sợ và bỡ ngỡ lúc ban đầu. Cả thân mình nàng hừng hực như một lò lửa, nàng níu lấy chàng, đê mê, hé môi, nhắm mắt, đón nhận. . .
Có tiếng con chim cú kêu sương. Mỹ Lan chợt tỉnh, nàng vội vàng đứng dạy, ú té chạy vào trong nhà, đóng ập của lại, rồi như muốn trốn tránh một thứ gì, nàng lấy chăn trùm kín mặt. Cả người của nàng như muốn bay vút lên cao. . .
Ngoài vườn. Trương Phố ngồi ngẩn nngơ, nhìn ánh trăng trải vàng trên những cành cây ngọn cỏ .
Sự bột phát của một thứ tình mà thường ngày nàng không nghĩ là nó nóng bỏng, dạt dào và mãnh liệt đến thế. . .Suốt đêm hôm ấy, Mỹ Lan cứ trằn trọc, nàng nhớ đến khuôn mặt dịu hiền nhưng đanh thép của mẹ, nàng nhớ đến phút giây vừa rồi. . .hừng hực, khao khát, khi hai làn môi tìm đến nhau, bám chặt vào nhau. Không gian hình như ngưng đọng, chỉ có hai trái tim thanh xuân đang thổn thức. . .
Từ đêm hôm ấy, con người của nàng như hoàn toàn thay đổi. Nàng lảng tránh không muốn gặp Trương Phố. Trương phố cũng biết, lúc này, người yêu của chàng đang rất xúc động, rất bối rối.
. . .Nhưng rồi, cái chuyện đêm ấy, sau đó phu nhân cũng biết được, lần này, bà không la mắng con gái nữa, nhưng cái ý định kén rể cho nhà họ Trương của bà càng lúc càng cương quyết. . . Ộ Lửa đã bén vào rơm rồiỢ, thế nhưng, quan Khâm sai, chồng bà thì nghĩ khác, ông muốn để Mỹ Lan tùy ý chọn ý trung nhân, nhưng, Ộ Nhất định không phải là là Trương Phố đâu đấyỢ Ông đã nói như đinh đóng cột như thế.
Do đó việc hôn nhân của Mỹ Lan cứ nay lần mai lữa không ai muốn nói đến. Và. . . Ngày qua ngày. . .
Về phần Trương, chàng tiếp tục học nghề thợ ngọc. Đúng là một nghệ sĩ thiên bẩm. Chỉ có ba năm sau, chàng đã trở thành thợ chính, tiếng tăm của chàng đã bắt đầu nổi lên. Ông chủ tiệm ngọc rất quý mến chàng, quý mến, phần vì ông cũng là một nhệ nhân, phần vì khách hàng càng ngày càng chỉ muốn chính Trương phải làm hàng cho họ. Phủ Khai Phong vốn là chỗ phồn hoa đô hội, các phu nhân đều đổ về tiệm bán ngọc, mong làm khách hàng của tiệm, trong những người ghé tiệm. lại có cả phu nhân quan Khâm sai.
Năm ấy, triều đình tổ chức lễ khánh thọ của Hoàng hậu rất linh đình, các quan trong triều, từ lớn tới nhỏ đều đang nặn óc kiếm bằng được chân châu, mỹ ngọc để có thể mua được nụ cười của Hoàng gia. Quan Khâm sai trằn trọc từng đêm. Phu nhân biết tâm trạng của chồng, bà lại nghe, có nhiều phu nhân trong triều đang tính thuê hẳn Trương Phố về nhà họ để làm nữ trang, bà đem ý định ấy nói với chồng. Quan Khâm sai nói:
- Ta cũng đã có nghe danh của nó ! Ừ nhỉ ! Nó là người nhà, tại sao lại không nhờ nó nhỉ ? Phu nhân kêu nó lên gặp ta, để người khác thuê mất thì không được đâu.
Trương được gọi lên. Ông nói với Trương:
- Này con, đây là một dịp đặc biệt, ta hoàn toàn trông cậy vào con. Bảo vật con làm, tác phẩm đó sẽ được dâng lên cho vị mẫu nghi thiên hạ, con nên nhớ, quà mừng của quan Khâm sai phải rất đặc biệt ! Nếu con làm tốt, Hoàng hậu, không những hài lòng về Phủ gia nhà mình, mà người còn ban tặng rất nhiều cho con nữa, Ta nghĩ đã đến lúc con vang danh với đời rồi đấy.
Thấy chàng Trương có vẻ băn khoăn, ông hỏi:
- Chắc trong lòng con có điều gì không ổn.
- Thưa thúc phụ, làm nghệ sĩ, tự do là một khao khát cao nhất, sống trong cái nhà này. Tuy con được thúc phụ và nải nải thương yêu như con, nhưng con có cảm tưởng, luôn luôn có con mắt của ai đó nhìn từng bước chân con đi. . .
Quan khâm sai nhìn vợ, ông biết đó là chuyện gì, ông vuốt râu cười thống khoái:
- Được, ta sẽ để cho con một căn phòng rất lớn. Con cứ tự do.
Rồi ông cho gia nhân đem đến một khối ngọc lớn. Trương Phố xem xét rồi nói với chú rằng:
- Quả là một khối ngọc không tì vết, với khối ngọc này, con sẽ sáng tạo ra một pho tượng Quan Thế âm. . .
Quan Khâm sai ngắt lời chàng:
- Ồ, một pho tượng Phật ư? Đình chùa miếu mạo thiếu gì?
- Thưa thúc phụ, với trí năng của con, bức tượng này, sẽ không giống những bức tượng ấy đâu. Thúc phụ tin con. . .
Ba tháng trôi qua, mọi việc hoàn tất.. . Ộ Đẹp tuyệt vời!Ợ Quan Khâm sai kinh ngạc. Bỗng dưng, ngài đăm đăm nhìn pho tượng, mồ hôi ông vã ra. Tất cả cử chỉ khác thường của ông khiến ai ai cũng nhìn lại bức tượng. Từ khuôn mặt tới thân hình nhang nhác như Mỹ Lan! Một chân dung không thể chê vào đâu được, từ ông chủ tiệm cho tới những người không biết gì đến nghệ thuật đều nói như thế! Đặc biệt, hai chiếc khuyên đeo trên nhánh tai pho tượng có thể xoay tròn mà không cần ráp nối. Thỉnh thoảng chúng chao qua trao lại phát ra một thứ âm thanh réo rắt .
Quan Khâm sai nói nhỏ với vợ:
- Đẹp thật, nhưng giống con ta quá.
Phu nhân hãnh diện:
- Thì có sao đâu? Bộ con ta không đẹp sao chứ? Nhưng. . .Tôi sợ nó vận vào người con mình. . .
Nói thế, nhưng ông bà rất hài lòng.
- Đẹp lắm Trương Phố ạ, ta tin rằng trong chốn cung đình, tiền muôn vạn tải kia cũng không ai có, cũng chưa hề có một tác phẩm nào như thế cả. . .Nhưng, sao nó giống Mỹ Lan nhà ta quá thể thế này.
Trương đỏ mặt:
- Tượng Phật tương trưng cho cả tinh hoa của vạn vật, của chúng sinh. Em Mỹ Lan cũng là siêu phẩm của tạo hóa vậy.
Bức tượng được dâng lên Hoàng hậu, Hoàng hậu đã ngẩn ngơ cả tiếng khi nhìn ngắm báu vật mà bà chưa từng được ai dâng lên cho mình! Ô, kìa! Trong dôi mắt kia, hình như có cả ánh sáng nữa. Hình như có tiếng nói nữa. Hình như có một ma lực nào đó. Ộ Ta là Hoàng hậu, bao nhiêu phiên quốc, bao nhiêu danh gia, phú hộ đã tặng ta không biết bao nhiêu là vàng bạc châu báu nhưng ta chưa hài lòng, đắc ý. Đây là vật báu nhất đời của taỢ
Chàng Trương lẽ dĩ nhiên được ông chủ tiệm, đặc biệt triều đình trao tặng không biết cơ man nào tiền bạc. Danh tiếng của Trương Phố nổi lên như cồn.
Riêng quan Khâm sai hỏi vợ:
- Nàng xem thằng Trương nó cần gì, thích gì thì phải tưởng thưởng nó, sao cho xứng đáng mới được. Ta vào triều, các quan đều chúc mừng, công của nó không phải là nhỏ.
- Thiếp đã dò ý nó rồi, nhưng, có điều này, phu quân cho thiếp hỏi. . .Trong lúc vui
miệng, hình như phu quân có bảo nó: Ộ Muốn cái gì cô chú cũng choỢ phải không?
Quan Khâm sai gật đầu. Phu nhân tái mặt:
- Nó bảo, bây giờ, mọi vật chất trên thế gian đối với nó là vô nghĩa! Nó chỉ muốn con Mỹ Lan!
Quan Khâm sai tím mặt, ông dằn từng tiếng:
- Không thể được. Không thể có chuyện loạn luân như thế được.
Phu nhân mới đem tất cả những vụng trộm bà biết được, kể cho chồng nghe. Quan Khâm sai mặt càng tái tím, ông nghiến răng:
- Như thế bà hãy kiếm nơi nào gả con Mỹ Lan ngay cho tôi.
Phu nhân nói:
- Tôi có đánh tiếng đến nhà quan Thượng thư rồi, Hoài công tử vừa trúng tuyển trạng nguyên lại là trang thanh niên anh tuấn. Ta mà thông gia với bên đó, cũng là một điều đại cát.
Quan Khâm sai nói như đinh chém đá:
- Gả cho ai cũng được, thằng phu xe cũng được nhưng không phải Trương Phố.
Bà thưởng tiền cho nó, rồi đuổi cổ nó ra khỏi nhà cho tôi. . .
Hung tin ấy đến với Mỹ Lan chẳng khác nào sét đánh mang tai, nàng rụng rời. Từ ngày Trương được nổi tiếng, chàng không phải ở dưới vườn nữa, nhưng cũng phải ở trong một căn phòng mé tây của phủ, có con đường ra vườn.
Mỹ Lan gõ cửa. Thấy người yêu đầm đìa nước mắt, chàng biết ngay chuyện gì đã xẩy ra.
Mỹ Lan nói dồn dập:
- Không thể trì hoãn nữa anh ạ. Mình phải trốn, trốn thật xa, trốn đến một nơi nào không ai biết gốc gác của mình, anh sẽ làm nghề thợ ngọc. Chúng mình còn có nhiều nữ trang, không thể chần chờ được đâu!
Trương ôm lấy Mỹ Lan:
- Đành rằng vậy, nhưng, em là cành vàng lá ngọc, sợ ra ngoài, nơi nhiều bụi bậm của chốn hồng trần. . .
Mỹ Lan quả quyết:
- Ở đâu cũng được, sống làm sao cũng được, khổ ải thế nào cũng được, miễn sao chúng mình có nhau. ..
Họ bàn tính nửa đêm hôm sau sẽ băng ngang qua tường để trốn.
Đêm đến, lại một đêm trăng nữa, nhưng những ánh trăng vàng rải khắp không gian lần này, không phải để chứng kiến những nụ hôn tình, những ve vuốt yêu đương nữa mà lại là một trợ thủ đắc lực cho lão quản gia vẫn hằng ngày, hằng đêm để mắt theo dõi họ
Trương Phố vừa mới tính ẫm Mỹ Lan lên tường, thì lão đã chạy đến, lão nói vừa như van xin, vừa như một mệnh lệnh:
- Tiểu thư khoan đi, để tôi bẩm báo với phu nhân trước đã.
- Không, ta cần đi gấp, không có thì giờ xin phép mẹ ta.
- Nhưng tôi không thể để tiểu thư đi được. Tôi là kẻ ăn người làm, tôi phải theo lệnh chủ. Phải biết giữ thanh danh cho Phủ đường này.
- Hãy buông ta ra, chính ta là chủ.
- Không, chủ tôi là quan Khâm sai và phu nhân. Tiểu thư phải đi với tôi vào bẩm với phu nhân mời được.
Hai bên cứ thế giằng co. Trương Phố cùng đường, chàng ôm chặt lấy lão, định để Mỹ Lan trèo lên tường trốn trước, chàng sẽ chạy sau. Không ngờ, ông quản gia già là thế nhưng còn nhiều sức lực, ông ta vuột ra được, quay lưng chạy định la, định khua mõ báo động. Trương Phố đuổi theo, đẩy ông lão ngã sấp. Ông lão mất đà, đâm lao xuống một cái hố, toàn rễ cây gồ ghề và một tảng đá rất lớn. Một tiếng Ộ HựỢ bật ra, thân hình lão quằn quại, chân tay giẫy đành đạch rồi nằm im bất động.
Trương Phố sợ hãi ngồi sụp xuống: Dưới ánh trăng vằng vặc,chàng thấy rõ một dòng máu chảy rỉ rỉ đẫm những cọng tóc bạc. Lão đã chết!
Mỹ Lan hoảng hốt:
- Làm thế nào bây giờ hả anh?
Trương Phố vốn là một nghệ sĩ, chàng cũng run cầm cập:
- Không, anh cũng không biết nữa, nhưng chắc chúng ta phải trốn ngay, kẻo không kịp nữa đâu em ạ.
- Nhưng. . .Còn xác của lão?
- Trời ơi! Anh cũng không biết, nhưng chúng ta phải sống!
Mỹ Lan vừa khóc vừa quô vội hai túi nải, Trương Phố đỡ nàng lên tường.
Ánh trăng vẫn chiếu, lần này chiếu sáng con đường mòn cho những đôi chân đang đào thoát. . .
Gần đến trưa, người ta mới phát ra cái chết của lão quản gia cùng với sự mất tích của Mỹ Lan và Trương Phố.
Không bút mực nào tả xiết thái độ nóng giận của quan ông và những giọt nước mắt đau khổ của quan bà.
- Trước hết phải giấu kín chuyện này. Còn hai đứa khốn nạn bại hoại gia phong đó_ Ngài quắc mắt. . .Ta sẽ cho lệnh đào bới khắp mặt đất để xem chúng mày có cánh để bay lên trời được hay không. Phải bắt cho bằng được chúng, đem về chặt đầu rồi chôn mỗi đứa một nơi, xem chúng mày có chung sống với nhau được không nào. . .
Quan Khâm sai gầm thét.
Đôi thanh niên nam nữ, sau khi trốn khỏi phủ, cứ thế vừa đi vừa chạy, có những lúc Mỹ Lan mệt quá, Trương Phố phải cõng nàng. Cho đến gần sáng, hai người đã mệt lả. Họ đang ở mé rừng. Trương Phố nhìn Mỹ Lan:
- Tội nghiệp cho em.
Nhưng khi nhìn lại trang phục của Mỹ Lan chàng vội nói:
- Phải cải trang mới được. Anh có mang theo đồ của mấy người làm vườn đây này. . .
Họ cải trang thành hai người nghèo khổ, rối cứ thế, ngày đi đêm nghỉ, họ tránh xa những nơi thị tứ, tránh cả những bến sông lớn. Cuối cùng, một con sông rộng bát ngàn hiện ra trước mặt họ. Con sông Dương tử chia cắt giữa Nam-Bắc.
- Đến đây coi như mình đã thoát, em xem kia, mặt sông thật đẹp. . .
Mỹ Lan vẫn còn sợ:
- Chúng ta phải đến một bến đò vắng để thuê thuyền, qua bên kia sông mới chắc là còn sống anh ạ.
Trương Phố nói với ông lái đò:
- Tôi sẽ trả tiền như ông cụ đòi, nhưng xin cứ chênh chếch cho về phía Tây, càng xa càng tốt, để khỏi phải dùng ngựa. . .
Mấy tháng sau thấy đã xa lắm rồi, hai người mua một căn nhà, nhà tuy nhỏ nhưng những tiếng mưa tí tách từ trên mái nhà, tia ánh trăng chiếu qua cửa sổ, và ánh ban mai chiếu vào phòng ngủ của hai kẻ yêu nhau đã lần lần hồi phục nỗi lo sợ của tai nạn vừa qua. . .
Một hôm Trương Phố bảo vợ:
- Anh nghe ở Giang Tây này có nhiều ngọc tốt. Hay vợ chồng mình bán nhà đến
Giang Tây đi em?
Mỹ Lan thảng thốt:
- Trời đất ơi! Anh chưa biết sợ hay sao mà lại nghĩ đến chuyện ngọc! Không, phải đi xa thêm nữa, và đừng bao giờ nghĩ đến chuyện ngọc nữa anh ạ. . .Anh đừng bao giờ quên lão Tài đã chết, chúng ta đã giết lão, chúng ta là những kẻ sát nhân đang bị truy nã.
- Nhưng chúng ta đâu có giết lão?
- Làm sao chứng tỏ nỗi oan đó được đây? Em tính, chúng ta lại phải đi xa nữa, và đừng có ở lâu một chỗ. Em biết cha em, ông không tha cho chúng mình đâu anh à?. . .Rồi miệng ăn núi lỡ, rồi. . .Anh sẽ làm những thứ tầm thường như đèn lồng, hay nặn những con vật bằng đất sét rồi em sẽ đem ra chợ bán. . .
Trương Phố ngơ ngác:
- Anh mà làm lại phải làm đèn lồng hay nặn đất sét hay sao?
Mỹ Lan trố mắt nhìn chồng, nàng vừa thương vừa giận anh chàng chồng nghệ sĩ.
Bỗng Trương cầm tay vợ, giọng anh nghẹn ngào:
- Anh nói em đừng buồn, ngoài tình yêu em ra, anh còn có một thứ tình, nó luôn cuốn hút anh vào một nỗi đam mê. . .Vả lại Lan à! Giang Tây cách phủ Khai Phong cả ngàn dậm, chúng ta sẽ học nói theo giọng miền Nam, chẳng ai để ý đến tên thợ ngọc nghèo khổ này đâu.
Mỹ Lan nhìn chồng thương hại:
- Thôi được, anh làm nghề thợ ngọc cũng được, nhưng phải đi xa hơn nữa, và anh đừng có làm khéo quá. Vụng về hơn nhiều để họ không biết gốc gác của chúng mình anh nhé!.
Họ liền bỏ Nam Xương, thủ phủ của tỉnh Giang Tây rồi xuống Kế An, một thị trấn nhỏ nằm giáp biển, chỉ cách Giang Tô vài chục dậm.
Ở Giang Tây có loại đất sứ và đất sét trắng, tốt nhất Trung quốc. Kế An tuy hẻo lánh nhưng vẫn thuộc về tỉnh Giang Tây, có thể mua được hai loại đất này rất dễ dàng. Lan vẫn thường nhắc Trương:
- Anh nên đổi qua nghề làm sứ đi anh ạ. Nếu quá lắm thì nặn những bức tượng bằng đất sét đi anh ạ.
Trương cầm hai tay vợ phân trần:
- Nếu muốn dấu tông tích anh, thì chúng ta đến đây, về địa lý đúng là một đầu Nam, một cuối Bắc rồi. Còn như nặn đồ sứ hay đất sét, người bình thường, cũng chẳng giấu được họ đâu em ạ.
Với số tiến họ mang theo, họ lại mua một căn nhà ở ngoại ô, mua các đá ngọc phẩm chất khác nhau rồi mở một cửa tiệm nho nhỏ, vừa làm nơi trưng bầy vừa để bán.
Mỹ Lan vẫn áy náy không yên. Linh giác của một người đàn bà vẫn hằng nhắc nhở nàng. . . Ộ Hãy coi chừng cha đấy!Ợ
Mỗi lần nàng nhìn những sản phẩm của chồng , nàng đều giật mình:
- Khổ quá đi thôi, anh cứ quen làm đẹp như thế này thì nguy hiểm lắm, phải làm xấu đi mới được.
Trương phố cũng muốn nghe lời vợ. Chàng rất thương nàng, chàng biết rằng, nếu không có chàng thì cuộc sống của cô Tiểu thư đài các này đâu có lao đao lận đận đâu. Thế nhưng khổ nỗi, đã làm nghệ sĩ, thì chỉ có thể làm đẹp lên chứ không cố tình làm xấu ra được. Mỗi một nghệ nhân, có dấu ấn riêng, có nét sáng tạo riêng. . .
Trương lén vợ chế tạo ra những hình nhân rất ngộ: Chú khỉ ăn cắp trái đào. Chú sóc bẻ trộm ngô, con chó đang vờ ngủ, con mèo thè lè cái lưỡi có con mắt xa xăm nhớ mẹ. Những con vật đó có những nét vừa thanh tú vừa tinh nghịch.
- Anh ơi, em đi chợ, nghe người ta bàn tán, họ rất thích những tác phẩm của anh. Em lo lắm.
Nàng dụi đầu vào người chàng:
- Nhắm mắt lại, đưa tay đây, có thấy gì không?
Trương cứ ngớ ra. Mỹ Lan bật cười:
- Ngốc, ngốc ơi là ngốc. Ông Ngốc sắp làm cha rồi ông biết không?
Trương bật ra như cái lo so:
- Ôi, chúng ta có tin mừng phải không. A! Một đứa con, anh sẽ là cha, con chúng ta sẽ rất dễ thương, căn nhà này, cuộc sống này, không còn cu ki hai đứa như trước nữa. . . Rồi anh sẽ truyền nghề cho nó. .
Câu cuối cùng làm Mỹ Lan mất vui . Nhưng họ đã ăn nên làm ra thật. Danh tiếng các đồ ngọc của tiệm Bảo Hồ đã được khắp nơi biết tiếng. Khách hàng nườm nượp tới đặt mua. các du khách từ Nam Kinh xuống hay Giang Tô lên, đi qua Kế An thế nào cũng phải dừng lại trước cửa tiệm của chàng. Kế An từ đó cũng trở nên sầm uất vì có tiệm ngọc Bảo Hồ. . .
Ít lâu sau lại thêm tin mừng, Mỹ Lan hạ sinh một chú bé trai xinh xắn, tiếng cười của cha mẹ, tiếng khóc của trẻ con đầy ắp trong một căn nhà, bây giờ đã trở nên giầu có.
Nhưng, sự lo sợ từ bấy lâu của Mỹ Lan đã đến. . .
Một buổi sáng, cửa hàng vừa mới mở, thì có một người đàn ông bước vào. Ông ta không xem ngọc, nhưng bắt đầu một cuộc lục vấn:
- Ông có phải là Trương Phố, bà con với quan Khâm sai ở Khai Phong phủ hay không?
Trương Phố như bị sét đánh, chàng trấn tĩnh:
- Không, tôi không phải người phủ Khai Phong!
- Tại sao ông lại nói giọng Bắc?
- Ồ sao ông vô lý thế, cứ giọng Bắc là người Khai Phong sao?
Người đàn ông nhìn chăm chăm vào mặt Trương Phố hỏi gằn:
- Ông đã lập gia đình chưa?
Trương Phố vừa giận vừa sợ:
- Có gia đình hay chưa là việc của tôi, tại sao ông lại đến đây hỏi những điều không liên quan gì đến ông chứ? Mời ông ra khỏi nhà tôi. . .
Người đàn ông bỏ đi. Nhưng những mẫu đối thoại của hai người, Mỹ Lan đã nghe thấy hết, nàng cũng đã hé rèm ra và rụng rời khi biết rằng đó chính là lão lục sự đã từng làm việc dưới quyền của cha nàng. . .
- Em thật sự lo lắng, tai vạ chúng ta đến rồi anh ơi!
Trương Phố an ủi vợ.
- Đừng sợ, em ơi.! Bất quá chúng ta trốn tránh lần nữa là cùng. . .
Hôm sau người đàn ông đó lại đến. Trương nghiêm nét mặt:
- Tôi đã nói với ông, tôi không hề biết Trương Phố, Trương Phiếc gì cả. Ông đã làm phiền tôi nhiều quá.
- Được lắm, nếu ông cố tình không biết , tôi nói cho ông rõ: Trương Phố là một tên tội đồ, y vốn là cháu gọi quan Khâm sai là chú, y được ngài nuôi nấng, bao bọc, tạo công ăn việc làm, nhưng chỉ là một con ong độc nằm trong tay áo! Y đã trả ơn quan Khâm sai bằng cách quyến rũ Tiểu thư, con gái duy nhất của quan. Y đã cuỗm theo bao nhiêu vàng bạc của phủ. Nghiêm trọng hơn hết, để dẽ dàng trốn chạy, y đã giết viên quản gia một cách rất thê thảm. Tội của y đáng phải chém đầu nhưng quan ra lệnh phải giữ kín, chưa tiện xin lính ở trên xuống bắt ông! Tôi đã xem qua các đồ ngọc người ta mang đến Nam Xương, ngoài ông ra không ai làm nổi. . . Đúng, ông thật sự là Trương Phố.
Còn nước còn tát Trương Phố gằn từng câu:
- Hừ ở đời này đâu chỉ có mình Trương Phố của ông mới là người giỏi đâu?
Chán vạn người khác còn giỏi hơn nhiều.
- Tôi nghi ông và được quyền bắt ông để giải về phủ Khai Phong, mọi việc trắng đen sẽ tính sau. Tôi có biết mặt Trương tiểu thư. Nếu ông nói, ông không phải là Trương Phố. Xin hãy coi tôi là người khách, nhờ bà đem mời tôi một tách nước trà. Đúng hay không đúng, biết liền. . .
Trương Phố tê tái, không còn cách nào khác nữa, Chàng dục hoãn cầu mưu:
- Việc đó thì rất dễ dàng nhưng hiềm nỗi giờ này nhà tôi dẫn mấy nhỏ sang Giang Tô ăn giỗ bên ngoại rồi, có lẽ cũng vài ba hôm, mong bữa khác ông trở lại.
- Được, hôm nào bà về, tôi sẽ tới.
Người đàn ông vừa bước ra khỏi tiệm. Vợ chồng Trương Phố hoảng hồn vội vàng bàn tính với nhau, thu xếp các báu vật, thuê một con thuyền, ngay đêm hôm ấy, bỏ nhà bỏ cửa, xuống thuyền chạy trốn. Họ xuôi theo dòng sông.
Hơn một tháng bềnh bồng trên sông nước. Thuyền tới Cẩm Sơn thì thằng bé bị bệnh phải đỗ thuyền lại để bốc thuốc. Tiền mặt đã hết. Trương Phố phải mang bán một trong những đồ vật chàng sáng tác. Đó là một con chó bằng ngọc ngồi ngủ gật, một mắt nhắm, một mắt mở, một tai cúp, một tai vểnh trông rất buồn cười.
Người mua là ông Hoa Vạn, một ông lão buôn ngọc có lòng tử tế và rất thạo nghề. . .
- Chà, ngọc Bảo Hồ ở Kế An đây mà! Chỉ có Bảo Hồ mới làm được những thứ như thế này. Tôi đang tìm mua. Làm sao ông có thứ này?
Trương Phố nói dối nhưng trong lòng chàng có chút tự hào:
- Nhà ông tinh thật đấy. Ngày trước tôi có nhờ người bạn đi qua Kế An mua cho. Nay túng tiền đem bán.
Cẩm Sơn còn gọi là Cam Tuyền, là một thị trấn nhỏ, nằm dưới chân một rặng núi cao. Phong cảnh, với một bên là sông nước bao la, một bên là núi non hùng vĩ, một cảnh non bồng nước nhược. Trương Phố bàn với vợ:
- Ở đây phong cảnh hữu tình, chú nhỏ đã lành bệnh, chúng ta mua một căn nhà thật xa.
Lan nghe lời. Sau đó ít lâu, Trương Phố lại bàn:
- Chúng ta nên mở một tiệm bán ngọc đi Lan à.
Lan giật mình:
- Trời ơi, anh chưa biết sợ hay sao? Sao anh cứ nghĩ đến ngọc đến ngà như thế. Gia đình ta đã thoát được như thế này, anh đừng để ý tới ngọc nữa. Chẳng lẽ đối với anh, ngọc lại giá trị hơn cả em và con hay sao?
Lan ngồi khóc. Trương Phố băn khoăn:
- Anh sẽ chiều mình, không làm ngọc nữa, nhưng anh có thể nặn đất sét, hay làm đồ sứ được không?
Lan ngao ngán nhìn chồng gật đầu.
Trương Phố lại sắm dụng cụ, lập lò nung, rồi chàng mua những loại đất sét tốt, hì hục nặn những pho tượng Phật phơi đầy sân và chuẩn bị đưa vào lò nung.
Những lúc ấy, chàng thường ra bến đò, gặp gỡ các lái buôn trên Ộ Con đường ngọcỢ Con đường này chạy dài từ Giang Tây, băng ngang qua tỉnh Quảng Đông, xuyên qua Kế An, Cẩm Sơn rồi tới các đồng bằng phì nhiêu ở phía Đông nam. Chàng rất thèm khát được sờ tay trên những thứ đá quý đó.
Có một lần lang thang trong thành phố, dán mặt vào những cửa kính của cửa hàng sang trọng, trong đó chỉ là những ngọc bình thường. Trương Phố thấy lòng xót xa, chàng về nhà, thấy mấy bức tượng bằng đất sét, bỗng nhiên giận dữ, vung chân đá bẹp dí các pho tượng:
- Đồ bùn đất vô giá trị này, tại sao người ta lại xếp mi là những nghệ thuật điêu khắc nhỉ? Ta, Trương Phố, muốn sáng tác những tác phẩm để đời, ta không cần tính mạng của ta nữa!
Mỹ Lan ứa nước mắt, nàng lắc đầu , thở dài:
- Anh yêu nghệ thuật hơn chính mạng sống của mình. Rồi những thứ mà anh đam mê đó, nó sẽ giết chết hạnh phúc và hủy diệt gia đình chúng ta_ Nàng lại khóc_ Anh ơi! Anh ơi!. .. Tôi là vợ, tôi biết trước việc dữ thế nào cũng sẽ đến nhưng không làm sao cản được.!
Trương Phổ ôm đôi vai thon nhỏ của người vợ:
- Thôi được rồi. Giữa tình yêu nghệ thuật và tình yêu của chúng ta, Anh chọn em và con! Anh sẽ nghe theo lời em. Chỉ có em và con là quan trọng đối với anh mà thôi.
Hàng ngày, chàng vẫn thường ra bờ sông, nhìn những người trao qua trao lại hàng ngọc cho nhau, nhìn sông nước bao la.
Cho đến một hôm. . .
Ông Lão Vạn lại tìm đến, nhờ chàng xem giúp ông ta vài món ngọc.
- Ông coi này, tôi mới ở Kế An về
Vừa nói, ông vừa mở một chiếc hộp có gói ghém cẩn thận:
- Đúng là tiệm Bảo Hồ đóng cửa thật rồi, nhưng tôi có mua những thứ này ở tiệm khác. Họ bảo đó là phẩm vật xuất xứ từ Bảo Hồ.
Trương Phố không thèm nhìn vì chàng biết đó là những vật giả mạo, nhưng khi nhìn thấy hình con khỉ ăn cắp trái đào thì chàng bỗng như nổi cơn điên:
- Đồ giả mạo! Trông chẳng ra hồn gì cả! Tượng ngọc, dù cho nhỏ hay lớn phải có hồn. Ngọc Bảo Hồ là những loại sản phẩm có hồn, lão biết không?
- Tôi biết, tôi biết. À mà quên, con chó tôi mua của ông, tôi bán giá gấp mười, thế mà thiên hạ vẫn tranh nhau mua đấy. Ông còn không? Bao nhiêu tôi cũng xin mua.
Tai Trương Phố lùng bùng:
- Tôi sẽ cho ông coi hàng của Bảo Hồ, những sản vật này mới là hàng chính.
Chàng dẫn ông Vạn về nhà, đưa cho ông coi tượng con khỉ ăn cắp đào. Ông ta năn nỉ gẫy cả lưỡi. Trương phải bán cho ông ta.
Mỹ Lan lại ngao ngán nhìn chồng.
Lên Nam Xương, lão Vạn hí hửng đem khoe với cánh lái buôn. . .
- Kỳ quá nhỉ, tại sao chủ tiệm đất sét lại có ngọc Bảo Hồ cơ chứ?
Thấy chẳng có ai tin, ông phân bua:
- Thật mà, tôi mua được hai con, nhưng tôi biết ông ta còn cất giữ nhiều lắm.
Từ đó tiếng đồn vang xa, tất cả những người đang thèm khát ngọc Bảo Hồ dồn về thị trấn Cam Tuyền . Trong đó có người lục sự đi cùng với ba người lính.
Họ đã đến, lần này để bắt cho bằng được Trương Phố và Mỹ Lan. . .
Mỹ Lan biết không còn cách nào khác, ngoài cách cứu sống chồng nàng. Viên lục sự lại biết mặt nàng. Mỹ Lan nói:
- Tôi cần phải thu xếp những đồ dùng cho con tôi nữa, cháu còn bé, đường thì xa, nó là cháu ngoại của quan Đại thần, nhỡ nó có mệnh hệ nào, các ông cũng lãnh một phần trách nhiệm đó.
Viên lục sự đã được quan dặn nhỏ là đối với Mỹ Lan phải đối xử tử tế, nên bằng lòng.
Vợ chồng Mỹ Lan vào nhà trong. Chuẩn bị đâu đấy xong xuôi. Lan lấy cái ruột tượng đựng các bảo vật , chính nàng khoác chéo vào ngực chồng, rồi mở cánh cửa sau. Giọng nàng đẫm nước mắt:
- Vĩnh biệt anh, vĩnh biệt tình yêu.
Trương Phố nấn ná:
- Anh muốn chết bên cạnh em và con. Anh muốn đền tội với em. Chỉ vì anh. . .
Nhưng Mỹ Lan cứ đẩy chồng ra phía vườn sau:
- Em dặn mình, lời cuối: Đừng bao giờ đụng tới ngọc nữa!
Chàng gật đầu vừa khóc vừa chạy. Khi đã ra khỏi khu vườn chàng còn ngoảnh lại, chàng biết lần này chẳng bao giờ chàng còn gặp lại hình bóng thân yêu này nữa. Chàng chỉ thấy khuôn mặt thẫn thờ của vợ, thân hình nàng như đang chới với. Một tay giơ lên cao, đưa ra đằng trước, đầu và cánh tay trái ngả sang một bên, như kiệt sức, như vĩnh biệt, như đang níu kéo nỗi tuyệt vọng, như đang xót xa cho số phận của nàng, của người chồng trăm năm cay đắng.
Thấy họ thu dọn quá lâu, mấy người đàn ông nóng ruột tông cửa chạy vào. Chỉ thấy đứa bé đang ôm lấy mẹ. Còn người mẹ thì đang nức nở. . .
Mỹ Lan và con được đưa về Khai Phong phủ, mẹ nàng đã mất từ lâu, cha nàng thì đã già nhưng cả người của ông vẫn toát ra vẻ oai vệ. Lan ứa nước mắt nhìn cha già. nàng lậy cha:
- Thưa cha con đã về. Xin cha thương con, thương lấy cháu. . .
Người nữ tì dắt đứa bé đến bên cạnh, nàng giúp con làm lễ tương kiến ông ngoại. Ngài vẫn ngồi yên trên ghế, nhưng gương mặt đã phảng phất vẻ hài lòng. Ông nhìn đứa bé, nó trông xinh xinh quá. Giống cả cha lẫn mẹ. Ngài hơi nhúc nhích, chìa một ngón tay ra cho nó nắm lấy tay ông ngoại.
Người lục sự rạp đầu xuống đất nhận tội về việc sơ ý để tội phạm trốn thoát. Ánh mắt ngài lộ vẻ đăm chiêu, dường như lưỡng lự:
- Thôi được! Có lẽ chẳng bao giờ ta tha cho nó. Tiếp tục đi tìm nó đem về chém đầu. Ta sẽ thưởng công thật lớn cho các ngươi khi hoàn thành công việc.
Đoạn ngài nhíu mày:
- Cái thằng vô ơn bạc nghĩa, đã phạm tội giết người còn phá hoại gia đình của nhà ta. Ta không thể tha cho nó đâu!
Thời gian dần dần, Lan vẫn ngóng trông tin tức của chồng, nhưng tin về Trương Phố vẫn bặt tăm. . .
Một hôm có quan Tổng đốc họ Dương cùng với đoàn tùy tùng trên đường tiến kinh, ghé lại Khai Phong thăm bạn. Quan Khâm sai rất mừng, mở tiệc khoản đãi. Trong khi ăn uống, quan Tổng đốc cho biết có đem tiến kinh một pho tượng rất đẹp cùng cỡ với pho tượng trước đây quan Khâm sai dâng Hoàng hậu. Nhưng theo ngài Tổng đốc, bức tượng này đẹp và ý nghĩa hơn bức tượng trước.
Ai cũng cho ra quan Tổng đốc nói quá, chứ cho đến nay, chưa có một bức nào qua mặt được pho tượng Hoàng hậu đang có.
Tiệc tàn, nữ tì dâng trà, quan Tổng đốc bèn cho bưng vào một chiếc gỗ lớn bằng gỗ quí, có các góc đều có cẩn bằng ngọc. Đích thân ngài tự mở hộp và đặt trên bàn
- Ồ! Trời ơi!
Mọi người trợn tròn mắt nhìn pho tượng rồi nhìn nhau kinh ngạc. Ngay người nữ tì bưng trà cũng phải sững sốt. Nó chạy vào báo tin với tiểu thư Mỹ Lan. Qua bức rèm mở hé. Mỹ Lan tái mặt, miệng lẩm bẩm như trong mơ. Cô không còn tin vào mắt mùnh nữa. Cô muốn ngã khụy. . .Ợ Chàng ơi, đúng là chàng rồi, chỉ có chàng mới tạc được hình ảnh của em. Chàng yêu em đến thế ư?Ợ
- Nghệ sĩ nào mà tuyệt vời thế, thưa quan huynh?
Vị Tổng đốc hơi kiêu hãnh, cố tình chậm lại để mọi người phải sốt ruột. Ngài chiêu một hớp nước rồi chậm giãi kể.
. . .Người nghệ sĩ này không phải tay tầm thường, Chỉ hiềm nỗi tôi không biết danh tánh. Tôi gặp anh ta trong một trường hợp đặc biệt. Số là có con cháu họ của phu nhân nhà tôi đi dự đám cưới. Nó mượn của phu nhân một vòng ngọc gia truyền, mà phu nhân tôi rất quý ít dám dùng tới. Đó là một cặp giống nhau, trên có khắc hình tứ linh. Chẳng may, nó đánh vỡ mất một cái. Nó vô cùng lo sợ, đi tìm tất cả tiệm bán ngọc, không ai làm nổi một chiếc khác thế vào. Cuối cùng, một yết thị được dán trước cửa Đông, đặt một số tiền thưởng lớn, hoa may ra. . .Ít lâu sau, một người nghệ sĩ tìm tới. Ông ta trông còn trẻ nhưng y phục trông vẻ nghèo nàn khiến con bé vô cùng thất vọng. Nó nghĩ bụng, một người có tài thường phải giầu hay có cuộc sống tương đối. Ông ta xem kỹ xong. Ông ta cười:
- Tiểu thư muốn làm một cái giống hệt như thế này, hay hai cái khác đẹp hơn.
- Tôi muốn làm một cái đúng như thế này mà thôi.
Ông ta lại mỉm cười.
- Chẳng khó khăn gì với tôi cả, Tôi còn có thể điêu khắc được những pho tượng trong cung đình nữa cơ mà. . .
Chiếc vòng hoàn thành. Con bé kêu lên ngạc nhiên, nó cứ ngắm nghía mãi không thể phân biệt được cái nào cũ, cái nào mới. Lúc đem trả, phu nhân cũng không thể biết. Tôi trách con bé sao không hỏi danh tánh ông ta. Nó nói ông ta bảo với nó rằng :
- Tôi là một người không nhà không cửa, không có quyền nêu danh tánh. Khi nào cần, cô cứ ra chợ nhắn Ộ Người thợ ngọc vô danhỢ là tôi tới.
Quan Tổng đốc ngừng lại một lát rồi tiếp
- Khi biết tin Hoàng hậu muốn có một pho tượng nữa, tôi bèn nghĩ ngay đến ông ta. Một mặt tôi cho tìm ông ấy, một mặt tôi ra lệnh tìm mua trên Ộ Con đường ngọcỢ một khối ngọc tốt và lớn.
Ông ta tới, vẫn quần áo tầm thường, điệu bộ lấm lét như một người đang trốn tránh. Tôi vừa buồn cười, vừa thương hại. Tôi mô tả hình dáng pho tượng mà trước đây Trương huynh đã dâng Hoàng hậu. cặp mắt ông ta sáng lên, một thứ ánh sáng kỳ bí, nửa vui mừng, nửa nuối tiếc.
Ông ta ngồi xuống xem lại khối đá ngọc. Ông ta ứa nước mắt:
- Trình quan lớn. Suốt trong đời tôi, tôi chỉ mơ ước sờ lên được khối ngọc tuyệt vời như thế này. Tôi sẽ đưa cả hồn tôi, cả người tôi yêu dấu vào nó. Nó sẽ là pho tượng đẹp nhất trần gian. Tôi chỉ xin ngài cho tôi tự do, không ai dòm ngó quấy rầy tôi cả. Tôi sẽ không lấy của ngài một đồng xu. . .
Tự do ! Tôi biết người nghệ sĩ muôn đời chỉ khao khát thứ ấy thì họ mới sáng tác được, phát huy được tim óc của mình.
Tôi gật đầu ưng thuận
Ba tháng sau, khác với dự đoán của tôi là anh ta phải mất ít nhất là sáu tháng. Anh ta đã hoàn tất và đem lên phòng của tôi. Đặt ngay trước mặt tôi, với vẻ rất hãnh diện.
- Chao ơi ! Tôi đã bàng hoàng rồi ngẩn ngơ khi nhìn pho tượng. Trong đời tôi, tôi chưa từng thấy một kiệt tác nào như thế cả. Trong khi tôi đang xúc động, thì ông ta đeo chiếc túi vải lên vai :
Thưa Thượng quan, tôi xin cám ơn ngài đã cho tôi để thỏa lòng mong ước của tôi: Tôi đã ghi lại được hình bóng người tôi yêu, trong hình tượng này. . Bây giờ xin phép Thượng quan tôi đi, Tôi không cần tiền bạc gì cả.
Tôi cứ ngẩn ngơ ngồi trên ghế, không hiểu ông ta nói cái gì, chỉ mang máng là hình như ông ta giã từ tôi. Tôi vốn chậm chạp lại bị thấp khớp, nên khi kiếm được đôi dép để chạy ra kêu gia nhân rượt theo. . . Thì ông ta đã mất hút . .
Đấy câu chuyện về người nghệ sĩ tài danh ấy là như thế đấy..
Trong khi quan Tổng đốc chiêu một hớp trà. Thì bỗng có tiếng kêu, như tuyệt vọng từ trong phòng:
- Trời ơi! Chàng ơi!
Quan Khâm sai biết chuyện chẳng lành xẩy ra cho con gái. Ông chạy vào, thấy Mỹ Lan đang từ từ quỵ xuống đất, rồi nàng năm sõng soài trên mặt đất. . .
Quan Tổng đốc ngạc nhiên hỏi :
- Chuyện gì vậy?
Một thực khách ngồi bên ghé tai nói nhỏ:
- Người nghệ sĩ mà ông vừa nói chính là Trương Phố, chồng của Tiểu thư con quan Khâm sai.
Rồi ông ta kể cho quan Tổng đốc về nỗi oan khuất và cảnh đoạn trường họ phải trải qua.
Tỉnh dậy, Mỹ Lan xin phép cha mình cho ra ngoài để tận mắt nhìn ngắm pho tượng. Nàng vân vê từng nét, từng nét, nàng hôn lên mái tóc của nó, hôn lên trán, hôn lên má, hôn lên môi trong tiếng nấc nghẹn ngào và những dòng nước mắt tuôn rơi. . .
Cả một đại sảnh to lớn như vậy, không ai là không rơi lệ. Quan Tổng đốc bị xúc động hơn hết, ông đứng bật dậy, cầm pho tượng trao cho Mỹ Lan:
- Con gái thương yêu của ta! Ta đã hiểu rõ tất cả, ta càng hiểu hơn sức mạnh của tình yêu và nghệ thuật, vật báu này là của con, con cứ giữ lấy nó. Với khả năng của ta, ta có thể kiếm tìm một vật khác để dâng Hoàng hậu. Với mọi người đó chỉ là một đồ trang sức nhưng với con, nó rất linh thiêng và gần gũi, nó còn là nguồn an ủi trước khi con được đoàn tụ với chồng.
Tiệc tan, người ta vẫn còn thấy hai ông quan, hai mái đầu bạc trắng còn đang rì rầm tâm sự.
Từ dạo đó, Mỹ Lan mỗi ngày một mòn mỏi, sự trông chờ của nàng như một ngọn đèn sắp hết dầu. Như có một loại vi trùng, đang gậm nhấm cơ thể héo hắt của nàng. . .
Quan Khâm sai, chắc do lời khuyên của quan Tổng đốc đêm nào, phần do thương con. Ông tuyên bố xá tội cho Trương Phố, rồi một năm sau, ông cùng một đoàn tùy tùng xuống tận Quảng Đông thăm quan Tổng đốc rồi nhờ quan hỏi thăm tin tức, tìm kiếm Trương Phố.
Nhưng chàng vẫn biền biệt.
Hai năm sau đó. Định mệnh chưa buông tha cho Mỹ Lan. Một cơn dịch hoành hành tại Khai Phong cướp mất đứa con của nàng. Không còn gì để bám víu. Nàng đã cắt tóc đi tu. Hành trang nàng mang đến cửa thiền chỉ có mỗi một pho tượng ngọc.
Theo như những tu sĩ cùng ở trong chùa nàng luôn luôn đóng chặt cửa phòng, không cho bất cứ ai được vào trong ấy. Nàng thức rất khuya, âm thầm ngồi viết những điều gì trên giấy, rồi sáng nàng lại đốt chúng đi.
Khoảng hai mươi năm sau, người nữ tu Trương Mỹ Lan đã từ giã cõi đời. Thân xác nàng thì đã tan rữa, nhưng pho tượng ngọc vẫn còn mãi để chứng minh cho hậu thế sức mạnh của tình yêu.
Hết
Phủ Khai Phong có con gái của quan Khâm sai đại thần họ Trương, tên là Trương Mỹ Lan, Mỹ Lan có sắc đẹp của một tuyệt thế giai nhân. Cha nàng, quan Khâm sai đại thần lúc bấy giờ giữ chức Đại pháp quan, thay mặt vua trông coi việc hình pháp, pháp luật cho tất cả các tỉnh miền Bắc, trong đó có phủ Khai Phong, đó cũng là nơi chôn rau cắt rốn của giòng họ Trương.
Quan đại thần họ Trương là một ông quan nghiêm nghị, có một chút hà khắc, nhưng ông rất thương Mỹ Lan, ngoài ra đối với tông tộc họ hàng, ông có phần châm chế. Bà vợ ông thì nắm toàn quyền cơ ngơi trong nhà. . .
Một ngày kia, Trương phu nhân , nhân về thăm quê có dẫn về một người cháu, người này, vì nhà quá nghèo, không có thể tiến thân, tên là Trương Phố, mười sáu tuổi, anh hơn Mỹ Lan hai tuổi lại là vai anh.
Thấy Trương Phố là một thanh niên tuấn tú, lại ăn nói nho nhã nên cả đại gia đình, kể cả gia nhân trong phủ, ai cũng quý mến.
Riêng đối với Mỹ Lan, Trương Phố đã quý mến người em khả ái này từ khi chàng mới bước chân về phủ. . .Hai người chơi với nhau rất là thân mật.
Khi Trương Phố mới về, phu nhân có ý tin tưởng, bà nghĩ rằng, dù sao, chàng cũng là người trong gia tộc cho nên phu nhân đã chỉ định chàng làm quản gia.
Nhưng, phàm đã làm chức ấy, thì phải nghiêm khắc với con ăn người ở. Đằng này, vốn tính nhu hòa, chàng cứ để mặc ai muốn làn gì thì làm. Hình như trong suốt thời gian phu nhân giao việc, cậu không hề la mắng, hay trừng phạt một ai. Cửa nhà vì thế mà buông lỏng.
Phu nhân nói với chồng:
- Ông xem đó, từ ngày nó làm quản gia, trong ngoài đều lỏng lẻo. Tôi cũng muốn giúp nó đấy chứ, nhưng tính nết như thế. . .
Quan Khâm sai chau mày:
- Nó không làm được, thì cho nó ra coi vườn.
Thế là cậu Trương nhà ta lại phải đi coi vườn ! Coi năm ba người làm vườn, nhưng cậu ta lại rất thích thú, cậu cảm thấy cậu gần gũi thiên nhiên hơn. Có những buổi tối, cậu nằm trên cái chõng tre nghe tiếng côn trùng kêu ra rả khắp vườn, cậu sung sướng trầm mình trong hoa chanh, hoa bưởi. Ban ngày, cậu lấy những cục than vẽ những hình người, hình cảnh vật trên những tấm gỗ. Chẳng ai dạy chàng cả, nhưng những nét vẽ của chàng rất sống động. Chàng còn lấy đất sét nặn những hình tượng rất có hồn.
Mỹ Lan thường đứng nhìn chàng vẽ, chàng nặn. Có khi còn đứng cả hàng giờ để nghe chàng Trương kể chuyện. Tình cảm của đôi nam thanh nữ tú càng ngày càng keo sơn gắn bó.
Cho đến một hôm, Phu nhân hỏi lão quản gia:
- Nhà ngươi có thấy Tiểu thư đâu không? Sao đôỉ này ta đi ngang qua thư phòng, ít gặp tiểu thư quá vậy.
Lão quản gia thưa:
- Bẩm phu nhân, Tiểu thư ở dưới vườn. Cô thường xuống đó trò chuyện với Trương công tử.
Phu nhân chau mày:
- Nhà ngươi mời Tiểu thư về đây gặp ta.
Mỹ Lan nhẩy những bước chân sáo lên tiền sảnh, thấy vẻ mặt của mẹ không vui, nàng chột dạ:
- Thưa mẹ gọi con.
Phu nhân nói ngay:
- Ta muốn từ nay, con không được xuống vườn nữa ! Chỗ ấy là chỗ của kẻ ăn người làm.
Mỹ Lan chu mỏ :
- Nhưng anh Trương Phố là anh con mà, anh đâu có phải . . .
Phu nhân gắt:
- Chuyện đó lẽ ra mẹ đã phải cho con biết lâu rồi, nam nữ thọ bất thân. Từ nay ta cấm chỉ.
Nói xong phu nhân đứng dậy, bà quay ngoắt vào trong để lại cho những giòng nước mắt của Mỹ Lan cứ thế tuôn trào. . .
Từ hôm đó, giờ khắc trôi qua đối với Mỹ Lan lẫn Trương Phố là những khoảnh khắc dài đằng đẳng. Cả hai người đã biết rằng có một thứ tình cảm, khác hẳn với tình anh em đã len lén đi vào hai trái tim, nó như những chiếc rễ, bám chặt vào tâm hồn của nhau rồi.
Một hôm, lợi dụng lúc phu nhân vắng nhà. Mỹ Lan chạy xuống vườn, thấy Trương đang cặm cụi nặn những hình nhân bằng đất sét. Nàng phụng phịu:
- Anh có nhớ em không? Sao anh cứ mải mê nặn với vẽ như thế?
Trương Phố chỉ những bức tượng to nhỏ:
- Lan hãy xem, những bức tựơng này giống ai?
Mỹ Lan ngỡ ngàng, nàng nhận ra dưới tấm ván kia, có vô số Mỹ Lan, khuôn mặt, hình dáng đều giống nàng. . .
Cho đến một hôm. Trương Phố lên thưa với phu nhân:
- Thưa nãi nãi, con đã kiếm được một chỗ học nghề!
Phu nhân hỏi:
- Nghề gì?
Trương Phố thưa:
- Con đã xin được chỗ học nghề thợ ngọc tại một tiệm rất danh tiếng. Xin cô chú cho phép?
Phu nhân gật đầu bằng lòng, bà thấy trong lòng bà như nhẹ hẳn đi, bà không muốn sự hiện diện của cái gai này trước mặt bà nữa.
Thế là từ đó, sáng đi đến chiều tối mịt, Trương Phố mới về nhà. Mỹ Lan thì càng ngày càng buồn, nàng chỉ mong cho đến tối, để được đứng trên lầu nhìn xuống, nơi góc vườn kia, có một trái tim đang hướng về nàng. Có những đêm, nhớ Trương quá, nàng chạy đại xuống vườn. Hai người chỉ kịp nói vài câu bâng quơ, rồi như đã bị tiếng ho của ông quản gia nhắc nhở. Họ buông nhau ra, nuối tiếc. . .
Chuyện ấy lại đến tai phu nhân
- Đêm hôm qua, con lại xuống vườn làm chi?
Mỹ Lan cúi đầu không trả lời.
Phu nhân gạt phăng khay trà xuống đất. Một tiếng Ộ XoảngỢ khô khốc vang lên. Mỹ Lan chờ cơn thịnh nộ của mẹ.
Phu nhân cầm chiếc quạt uy quyền chỉ vào mặt con gái:
- Con đã không làm theo lời mẹ dặn. Con phải nhớ, con đã lớn lắm rồi. Ta không muốn nói chuyện này với cha. Con hãy liệu thần hồn. . .
Rồi vào một đêm kia, Cái đêm hôm ấy,. Đất trời hôm ấy đã mãi mãi nằm gọn trong ký ức của hai kẻ yêu nhau. .
Mỹ Lan nằm mãi mà vẫn không ngủ được, dưới kia, chỉ ngay dưới kia thôi, người yêu của nàng giờ đây đang làm gì nhỉ. Nàng cứ thắc mắc mãi một câu hỏi đơn giản như thế. Tiếng dế kêu não lòng, rồi ánh trăng gợi tình ỏng ẻo chiếu qua cửa sổ thôi thúc. Ộ giờ này, lão bõ đã ngủ rồiỢ. Nàng dón dén đi xuống. . .
Bóng trăng sao vằng vặc trên trời, sương lạnh lòa xòa mặt đất. Tiếng Trương Phố như có hơi ấm:
- Anh nhớ em vô cùng, Lan ơi!
- Em cũng nhớ anh lắm, nhớ như chưa từng nhớ một vật gì trên thế gian này như vậy, nhưng mẹ nghiêm khắc lắm. . Mà sao anh cứ nhìn em đăm đăm như vậy kìa?
Trương Phố nhìn lên bầu trời:
- Người ta bảo chị Hằng đẹp lắm, anh đang tìm chị để so sánh xem, giữa em và nàng ấy ai đẹp hơn ai?
- Em sợ lắm, em sợ mẹ biết em xuống dưới này. . .
Trương Phố ôm lấy đôi vai gầy của Mỹ Lan, lời nói ấm áp như tiếng gió đang đi trên những mảng sương:
- Nếu như sáng mai anh phải ra pháp trường mà tối nay, anh được ôm em như thế này, anh cũng bằng lòng.
Mỹ Lan bật khóc:
- Anh cũng biết rằng, chúng ta là anh em họ, không thể lấy nhau. . .
Trương Phố kéo nàng vào lòng:
- Nhưng con tim của hai đứa mình đã thuộc về nhau rồi. . . Chúng đã lấy nhau rồi! Anh yêu em, anh không thể sống thiếu em. . .
Chàng dụi mặt vào mặt nàng, vào cổ nàng, rồi vòng tay ôm chặt lấy tấm thân mềm mại nhưng nóng hổi của nàng. . .
Người con gái mất hẳn nỗi lo sợ và bỡ ngỡ lúc ban đầu. Cả thân mình nàng hừng hực như một lò lửa, nàng níu lấy chàng, đê mê, hé môi, nhắm mắt, đón nhận. . .
Có tiếng con chim cú kêu sương. Mỹ Lan chợt tỉnh, nàng vội vàng đứng dạy, ú té chạy vào trong nhà, đóng ập của lại, rồi như muốn trốn tránh một thứ gì, nàng lấy chăn trùm kín mặt. Cả người của nàng như muốn bay vút lên cao. . .
Ngoài vườn. Trương Phố ngồi ngẩn nngơ, nhìn ánh trăng trải vàng trên những cành cây ngọn cỏ .
Sự bột phát của một thứ tình mà thường ngày nàng không nghĩ là nó nóng bỏng, dạt dào và mãnh liệt đến thế. . .Suốt đêm hôm ấy, Mỹ Lan cứ trằn trọc, nàng nhớ đến khuôn mặt dịu hiền nhưng đanh thép của mẹ, nàng nhớ đến phút giây vừa rồi. . .hừng hực, khao khát, khi hai làn môi tìm đến nhau, bám chặt vào nhau. Không gian hình như ngưng đọng, chỉ có hai trái tim thanh xuân đang thổn thức. . .
Từ đêm hôm ấy, con người của nàng như hoàn toàn thay đổi. Nàng lảng tránh không muốn gặp Trương Phố. Trương phố cũng biết, lúc này, người yêu của chàng đang rất xúc động, rất bối rối.
. . .Nhưng rồi, cái chuyện đêm ấy, sau đó phu nhân cũng biết được, lần này, bà không la mắng con gái nữa, nhưng cái ý định kén rể cho nhà họ Trương của bà càng lúc càng cương quyết. . . Ộ Lửa đã bén vào rơm rồiỢ, thế nhưng, quan Khâm sai, chồng bà thì nghĩ khác, ông muốn để Mỹ Lan tùy ý chọn ý trung nhân, nhưng, Ộ Nhất định không phải là là Trương Phố đâu đấyỢ Ông đã nói như đinh đóng cột như thế.
Do đó việc hôn nhân của Mỹ Lan cứ nay lần mai lữa không ai muốn nói đến. Và. . . Ngày qua ngày. . .
Về phần Trương, chàng tiếp tục học nghề thợ ngọc. Đúng là một nghệ sĩ thiên bẩm. Chỉ có ba năm sau, chàng đã trở thành thợ chính, tiếng tăm của chàng đã bắt đầu nổi lên. Ông chủ tiệm ngọc rất quý mến chàng, quý mến, phần vì ông cũng là một nhệ nhân, phần vì khách hàng càng ngày càng chỉ muốn chính Trương phải làm hàng cho họ. Phủ Khai Phong vốn là chỗ phồn hoa đô hội, các phu nhân đều đổ về tiệm bán ngọc, mong làm khách hàng của tiệm, trong những người ghé tiệm. lại có cả phu nhân quan Khâm sai.
Năm ấy, triều đình tổ chức lễ khánh thọ của Hoàng hậu rất linh đình, các quan trong triều, từ lớn tới nhỏ đều đang nặn óc kiếm bằng được chân châu, mỹ ngọc để có thể mua được nụ cười của Hoàng gia. Quan Khâm sai trằn trọc từng đêm. Phu nhân biết tâm trạng của chồng, bà lại nghe, có nhiều phu nhân trong triều đang tính thuê hẳn Trương Phố về nhà họ để làm nữ trang, bà đem ý định ấy nói với chồng. Quan Khâm sai nói:
- Ta cũng đã có nghe danh của nó ! Ừ nhỉ ! Nó là người nhà, tại sao lại không nhờ nó nhỉ ? Phu nhân kêu nó lên gặp ta, để người khác thuê mất thì không được đâu.
Trương được gọi lên. Ông nói với Trương:
- Này con, đây là một dịp đặc biệt, ta hoàn toàn trông cậy vào con. Bảo vật con làm, tác phẩm đó sẽ được dâng lên cho vị mẫu nghi thiên hạ, con nên nhớ, quà mừng của quan Khâm sai phải rất đặc biệt ! Nếu con làm tốt, Hoàng hậu, không những hài lòng về Phủ gia nhà mình, mà người còn ban tặng rất nhiều cho con nữa, Ta nghĩ đã đến lúc con vang danh với đời rồi đấy.
Thấy chàng Trương có vẻ băn khoăn, ông hỏi:
- Chắc trong lòng con có điều gì không ổn.
- Thưa thúc phụ, làm nghệ sĩ, tự do là một khao khát cao nhất, sống trong cái nhà này. Tuy con được thúc phụ và nải nải thương yêu như con, nhưng con có cảm tưởng, luôn luôn có con mắt của ai đó nhìn từng bước chân con đi. . .
Quan khâm sai nhìn vợ, ông biết đó là chuyện gì, ông vuốt râu cười thống khoái:
- Được, ta sẽ để cho con một căn phòng rất lớn. Con cứ tự do.
Rồi ông cho gia nhân đem đến một khối ngọc lớn. Trương Phố xem xét rồi nói với chú rằng:
- Quả là một khối ngọc không tì vết, với khối ngọc này, con sẽ sáng tạo ra một pho tượng Quan Thế âm. . .
Quan Khâm sai ngắt lời chàng:
- Ồ, một pho tượng Phật ư? Đình chùa miếu mạo thiếu gì?
- Thưa thúc phụ, với trí năng của con, bức tượng này, sẽ không giống những bức tượng ấy đâu. Thúc phụ tin con. . .
Ba tháng trôi qua, mọi việc hoàn tất.. . Ộ Đẹp tuyệt vời!Ợ Quan Khâm sai kinh ngạc. Bỗng dưng, ngài đăm đăm nhìn pho tượng, mồ hôi ông vã ra. Tất cả cử chỉ khác thường của ông khiến ai ai cũng nhìn lại bức tượng. Từ khuôn mặt tới thân hình nhang nhác như Mỹ Lan! Một chân dung không thể chê vào đâu được, từ ông chủ tiệm cho tới những người không biết gì đến nghệ thuật đều nói như thế! Đặc biệt, hai chiếc khuyên đeo trên nhánh tai pho tượng có thể xoay tròn mà không cần ráp nối. Thỉnh thoảng chúng chao qua trao lại phát ra một thứ âm thanh réo rắt .
Quan Khâm sai nói nhỏ với vợ:
- Đẹp thật, nhưng giống con ta quá.
Phu nhân hãnh diện:
- Thì có sao đâu? Bộ con ta không đẹp sao chứ? Nhưng. . .Tôi sợ nó vận vào người con mình. . .
Nói thế, nhưng ông bà rất hài lòng.
- Đẹp lắm Trương Phố ạ, ta tin rằng trong chốn cung đình, tiền muôn vạn tải kia cũng không ai có, cũng chưa hề có một tác phẩm nào như thế cả. . .Nhưng, sao nó giống Mỹ Lan nhà ta quá thể thế này.
Trương đỏ mặt:
- Tượng Phật tương trưng cho cả tinh hoa của vạn vật, của chúng sinh. Em Mỹ Lan cũng là siêu phẩm của tạo hóa vậy.
Bức tượng được dâng lên Hoàng hậu, Hoàng hậu đã ngẩn ngơ cả tiếng khi nhìn ngắm báu vật mà bà chưa từng được ai dâng lên cho mình! Ô, kìa! Trong dôi mắt kia, hình như có cả ánh sáng nữa. Hình như có tiếng nói nữa. Hình như có một ma lực nào đó. Ộ Ta là Hoàng hậu, bao nhiêu phiên quốc, bao nhiêu danh gia, phú hộ đã tặng ta không biết bao nhiêu là vàng bạc châu báu nhưng ta chưa hài lòng, đắc ý. Đây là vật báu nhất đời của taỢ
Chàng Trương lẽ dĩ nhiên được ông chủ tiệm, đặc biệt triều đình trao tặng không biết cơ man nào tiền bạc. Danh tiếng của Trương Phố nổi lên như cồn.
Riêng quan Khâm sai hỏi vợ:
- Nàng xem thằng Trương nó cần gì, thích gì thì phải tưởng thưởng nó, sao cho xứng đáng mới được. Ta vào triều, các quan đều chúc mừng, công của nó không phải là nhỏ.
- Thiếp đã dò ý nó rồi, nhưng, có điều này, phu quân cho thiếp hỏi. . .Trong lúc vui
miệng, hình như phu quân có bảo nó: Ộ Muốn cái gì cô chú cũng choỢ phải không?
Quan Khâm sai gật đầu. Phu nhân tái mặt:
- Nó bảo, bây giờ, mọi vật chất trên thế gian đối với nó là vô nghĩa! Nó chỉ muốn con Mỹ Lan!
Quan Khâm sai tím mặt, ông dằn từng tiếng:
- Không thể được. Không thể có chuyện loạn luân như thế được.
Phu nhân mới đem tất cả những vụng trộm bà biết được, kể cho chồng nghe. Quan Khâm sai mặt càng tái tím, ông nghiến răng:
- Như thế bà hãy kiếm nơi nào gả con Mỹ Lan ngay cho tôi.
Phu nhân nói:
- Tôi có đánh tiếng đến nhà quan Thượng thư rồi, Hoài công tử vừa trúng tuyển trạng nguyên lại là trang thanh niên anh tuấn. Ta mà thông gia với bên đó, cũng là một điều đại cát.
Quan Khâm sai nói như đinh chém đá:
- Gả cho ai cũng được, thằng phu xe cũng được nhưng không phải Trương Phố.
Bà thưởng tiền cho nó, rồi đuổi cổ nó ra khỏi nhà cho tôi. . .
Hung tin ấy đến với Mỹ Lan chẳng khác nào sét đánh mang tai, nàng rụng rời. Từ ngày Trương được nổi tiếng, chàng không phải ở dưới vườn nữa, nhưng cũng phải ở trong một căn phòng mé tây của phủ, có con đường ra vườn.
Mỹ Lan gõ cửa. Thấy người yêu đầm đìa nước mắt, chàng biết ngay chuyện gì đã xẩy ra.
Mỹ Lan nói dồn dập:
- Không thể trì hoãn nữa anh ạ. Mình phải trốn, trốn thật xa, trốn đến một nơi nào không ai biết gốc gác của mình, anh sẽ làm nghề thợ ngọc. Chúng mình còn có nhiều nữ trang, không thể chần chờ được đâu!
Trương ôm lấy Mỹ Lan:
- Đành rằng vậy, nhưng, em là cành vàng lá ngọc, sợ ra ngoài, nơi nhiều bụi bậm của chốn hồng trần. . .
Mỹ Lan quả quyết:
- Ở đâu cũng được, sống làm sao cũng được, khổ ải thế nào cũng được, miễn sao chúng mình có nhau. ..
Họ bàn tính nửa đêm hôm sau sẽ băng ngang qua tường để trốn.
Đêm đến, lại một đêm trăng nữa, nhưng những ánh trăng vàng rải khắp không gian lần này, không phải để chứng kiến những nụ hôn tình, những ve vuốt yêu đương nữa mà lại là một trợ thủ đắc lực cho lão quản gia vẫn hằng ngày, hằng đêm để mắt theo dõi họ
Trương Phố vừa mới tính ẫm Mỹ Lan lên tường, thì lão đã chạy đến, lão nói vừa như van xin, vừa như một mệnh lệnh:
- Tiểu thư khoan đi, để tôi bẩm báo với phu nhân trước đã.
- Không, ta cần đi gấp, không có thì giờ xin phép mẹ ta.
- Nhưng tôi không thể để tiểu thư đi được. Tôi là kẻ ăn người làm, tôi phải theo lệnh chủ. Phải biết giữ thanh danh cho Phủ đường này.
- Hãy buông ta ra, chính ta là chủ.
- Không, chủ tôi là quan Khâm sai và phu nhân. Tiểu thư phải đi với tôi vào bẩm với phu nhân mời được.
Hai bên cứ thế giằng co. Trương Phố cùng đường, chàng ôm chặt lấy lão, định để Mỹ Lan trèo lên tường trốn trước, chàng sẽ chạy sau. Không ngờ, ông quản gia già là thế nhưng còn nhiều sức lực, ông ta vuột ra được, quay lưng chạy định la, định khua mõ báo động. Trương Phố đuổi theo, đẩy ông lão ngã sấp. Ông lão mất đà, đâm lao xuống một cái hố, toàn rễ cây gồ ghề và một tảng đá rất lớn. Một tiếng Ộ HựỢ bật ra, thân hình lão quằn quại, chân tay giẫy đành đạch rồi nằm im bất động.
Trương Phố sợ hãi ngồi sụp xuống: Dưới ánh trăng vằng vặc,chàng thấy rõ một dòng máu chảy rỉ rỉ đẫm những cọng tóc bạc. Lão đã chết!
Mỹ Lan hoảng hốt:
- Làm thế nào bây giờ hả anh?
Trương Phố vốn là một nghệ sĩ, chàng cũng run cầm cập:
- Không, anh cũng không biết nữa, nhưng chắc chúng ta phải trốn ngay, kẻo không kịp nữa đâu em ạ.
- Nhưng. . .Còn xác của lão?
- Trời ơi! Anh cũng không biết, nhưng chúng ta phải sống!
Mỹ Lan vừa khóc vừa quô vội hai túi nải, Trương Phố đỡ nàng lên tường.
Ánh trăng vẫn chiếu, lần này chiếu sáng con đường mòn cho những đôi chân đang đào thoát. . .
Gần đến trưa, người ta mới phát ra cái chết của lão quản gia cùng với sự mất tích của Mỹ Lan và Trương Phố.
Không bút mực nào tả xiết thái độ nóng giận của quan ông và những giọt nước mắt đau khổ của quan bà.
- Trước hết phải giấu kín chuyện này. Còn hai đứa khốn nạn bại hoại gia phong đó_ Ngài quắc mắt. . .Ta sẽ cho lệnh đào bới khắp mặt đất để xem chúng mày có cánh để bay lên trời được hay không. Phải bắt cho bằng được chúng, đem về chặt đầu rồi chôn mỗi đứa một nơi, xem chúng mày có chung sống với nhau được không nào. . .
Quan Khâm sai gầm thét.
Đôi thanh niên nam nữ, sau khi trốn khỏi phủ, cứ thế vừa đi vừa chạy, có những lúc Mỹ Lan mệt quá, Trương Phố phải cõng nàng. Cho đến gần sáng, hai người đã mệt lả. Họ đang ở mé rừng. Trương Phố nhìn Mỹ Lan:
- Tội nghiệp cho em.
Nhưng khi nhìn lại trang phục của Mỹ Lan chàng vội nói:
- Phải cải trang mới được. Anh có mang theo đồ của mấy người làm vườn đây này. . .
Họ cải trang thành hai người nghèo khổ, rối cứ thế, ngày đi đêm nghỉ, họ tránh xa những nơi thị tứ, tránh cả những bến sông lớn. Cuối cùng, một con sông rộng bát ngàn hiện ra trước mặt họ. Con sông Dương tử chia cắt giữa Nam-Bắc.
- Đến đây coi như mình đã thoát, em xem kia, mặt sông thật đẹp. . .
Mỹ Lan vẫn còn sợ:
- Chúng ta phải đến một bến đò vắng để thuê thuyền, qua bên kia sông mới chắc là còn sống anh ạ.
Trương Phố nói với ông lái đò:
- Tôi sẽ trả tiền như ông cụ đòi, nhưng xin cứ chênh chếch cho về phía Tây, càng xa càng tốt, để khỏi phải dùng ngựa. . .
Mấy tháng sau thấy đã xa lắm rồi, hai người mua một căn nhà, nhà tuy nhỏ nhưng những tiếng mưa tí tách từ trên mái nhà, tia ánh trăng chiếu qua cửa sổ, và ánh ban mai chiếu vào phòng ngủ của hai kẻ yêu nhau đã lần lần hồi phục nỗi lo sợ của tai nạn vừa qua. . .
Một hôm Trương Phố bảo vợ:
- Anh nghe ở Giang Tây này có nhiều ngọc tốt. Hay vợ chồng mình bán nhà đến
Giang Tây đi em?
Mỹ Lan thảng thốt:
- Trời đất ơi! Anh chưa biết sợ hay sao mà lại nghĩ đến chuyện ngọc! Không, phải đi xa thêm nữa, và đừng bao giờ nghĩ đến chuyện ngọc nữa anh ạ. . .Anh đừng bao giờ quên lão Tài đã chết, chúng ta đã giết lão, chúng ta là những kẻ sát nhân đang bị truy nã.
- Nhưng chúng ta đâu có giết lão?
- Làm sao chứng tỏ nỗi oan đó được đây? Em tính, chúng ta lại phải đi xa nữa, và đừng có ở lâu một chỗ. Em biết cha em, ông không tha cho chúng mình đâu anh à?. . .Rồi miệng ăn núi lỡ, rồi. . .Anh sẽ làm những thứ tầm thường như đèn lồng, hay nặn những con vật bằng đất sét rồi em sẽ đem ra chợ bán. . .
Trương Phố ngơ ngác:
- Anh mà làm lại phải làm đèn lồng hay nặn đất sét hay sao?
Mỹ Lan trố mắt nhìn chồng, nàng vừa thương vừa giận anh chàng chồng nghệ sĩ.
Bỗng Trương cầm tay vợ, giọng anh nghẹn ngào:
- Anh nói em đừng buồn, ngoài tình yêu em ra, anh còn có một thứ tình, nó luôn cuốn hút anh vào một nỗi đam mê. . .Vả lại Lan à! Giang Tây cách phủ Khai Phong cả ngàn dậm, chúng ta sẽ học nói theo giọng miền Nam, chẳng ai để ý đến tên thợ ngọc nghèo khổ này đâu.
Mỹ Lan nhìn chồng thương hại:
- Thôi được, anh làm nghề thợ ngọc cũng được, nhưng phải đi xa hơn nữa, và anh đừng có làm khéo quá. Vụng về hơn nhiều để họ không biết gốc gác của chúng mình anh nhé!.
Họ liền bỏ Nam Xương, thủ phủ của tỉnh Giang Tây rồi xuống Kế An, một thị trấn nhỏ nằm giáp biển, chỉ cách Giang Tô vài chục dậm.
Ở Giang Tây có loại đất sứ và đất sét trắng, tốt nhất Trung quốc. Kế An tuy hẻo lánh nhưng vẫn thuộc về tỉnh Giang Tây, có thể mua được hai loại đất này rất dễ dàng. Lan vẫn thường nhắc Trương:
- Anh nên đổi qua nghề làm sứ đi anh ạ. Nếu quá lắm thì nặn những bức tượng bằng đất sét đi anh ạ.
Trương cầm hai tay vợ phân trần:
- Nếu muốn dấu tông tích anh, thì chúng ta đến đây, về địa lý đúng là một đầu Nam, một cuối Bắc rồi. Còn như nặn đồ sứ hay đất sét, người bình thường, cũng chẳng giấu được họ đâu em ạ.
Với số tiến họ mang theo, họ lại mua một căn nhà ở ngoại ô, mua các đá ngọc phẩm chất khác nhau rồi mở một cửa tiệm nho nhỏ, vừa làm nơi trưng bầy vừa để bán.
Mỹ Lan vẫn áy náy không yên. Linh giác của một người đàn bà vẫn hằng nhắc nhở nàng. . . Ộ Hãy coi chừng cha đấy!Ợ
Mỗi lần nàng nhìn những sản phẩm của chồng , nàng đều giật mình:
- Khổ quá đi thôi, anh cứ quen làm đẹp như thế này thì nguy hiểm lắm, phải làm xấu đi mới được.
Trương phố cũng muốn nghe lời vợ. Chàng rất thương nàng, chàng biết rằng, nếu không có chàng thì cuộc sống của cô Tiểu thư đài các này đâu có lao đao lận đận đâu. Thế nhưng khổ nỗi, đã làm nghệ sĩ, thì chỉ có thể làm đẹp lên chứ không cố tình làm xấu ra được. Mỗi một nghệ nhân, có dấu ấn riêng, có nét sáng tạo riêng. . .
Trương lén vợ chế tạo ra những hình nhân rất ngộ: Chú khỉ ăn cắp trái đào. Chú sóc bẻ trộm ngô, con chó đang vờ ngủ, con mèo thè lè cái lưỡi có con mắt xa xăm nhớ mẹ. Những con vật đó có những nét vừa thanh tú vừa tinh nghịch.
- Anh ơi, em đi chợ, nghe người ta bàn tán, họ rất thích những tác phẩm của anh. Em lo lắm.
Nàng dụi đầu vào người chàng:
- Nhắm mắt lại, đưa tay đây, có thấy gì không?
Trương cứ ngớ ra. Mỹ Lan bật cười:
- Ngốc, ngốc ơi là ngốc. Ông Ngốc sắp làm cha rồi ông biết không?
Trương bật ra như cái lo so:
- Ôi, chúng ta có tin mừng phải không. A! Một đứa con, anh sẽ là cha, con chúng ta sẽ rất dễ thương, căn nhà này, cuộc sống này, không còn cu ki hai đứa như trước nữa. . . Rồi anh sẽ truyền nghề cho nó. .
Câu cuối cùng làm Mỹ Lan mất vui . Nhưng họ đã ăn nên làm ra thật. Danh tiếng các đồ ngọc của tiệm Bảo Hồ đã được khắp nơi biết tiếng. Khách hàng nườm nượp tới đặt mua. các du khách từ Nam Kinh xuống hay Giang Tô lên, đi qua Kế An thế nào cũng phải dừng lại trước cửa tiệm của chàng. Kế An từ đó cũng trở nên sầm uất vì có tiệm ngọc Bảo Hồ. . .
Ít lâu sau lại thêm tin mừng, Mỹ Lan hạ sinh một chú bé trai xinh xắn, tiếng cười của cha mẹ, tiếng khóc của trẻ con đầy ắp trong một căn nhà, bây giờ đã trở nên giầu có.
Nhưng, sự lo sợ từ bấy lâu của Mỹ Lan đã đến. . .
Một buổi sáng, cửa hàng vừa mới mở, thì có một người đàn ông bước vào. Ông ta không xem ngọc, nhưng bắt đầu một cuộc lục vấn:
- Ông có phải là Trương Phố, bà con với quan Khâm sai ở Khai Phong phủ hay không?
Trương Phố như bị sét đánh, chàng trấn tĩnh:
- Không, tôi không phải người phủ Khai Phong!
- Tại sao ông lại nói giọng Bắc?
- Ồ sao ông vô lý thế, cứ giọng Bắc là người Khai Phong sao?
Người đàn ông nhìn chăm chăm vào mặt Trương Phố hỏi gằn:
- Ông đã lập gia đình chưa?
Trương Phố vừa giận vừa sợ:
- Có gia đình hay chưa là việc của tôi, tại sao ông lại đến đây hỏi những điều không liên quan gì đến ông chứ? Mời ông ra khỏi nhà tôi. . .
Người đàn ông bỏ đi. Nhưng những mẫu đối thoại của hai người, Mỹ Lan đã nghe thấy hết, nàng cũng đã hé rèm ra và rụng rời khi biết rằng đó chính là lão lục sự đã từng làm việc dưới quyền của cha nàng. . .
- Em thật sự lo lắng, tai vạ chúng ta đến rồi anh ơi!
Trương Phố an ủi vợ.
- Đừng sợ, em ơi.! Bất quá chúng ta trốn tránh lần nữa là cùng. . .
Hôm sau người đàn ông đó lại đến. Trương nghiêm nét mặt:
- Tôi đã nói với ông, tôi không hề biết Trương Phố, Trương Phiếc gì cả. Ông đã làm phiền tôi nhiều quá.
- Được lắm, nếu ông cố tình không biết , tôi nói cho ông rõ: Trương Phố là một tên tội đồ, y vốn là cháu gọi quan Khâm sai là chú, y được ngài nuôi nấng, bao bọc, tạo công ăn việc làm, nhưng chỉ là một con ong độc nằm trong tay áo! Y đã trả ơn quan Khâm sai bằng cách quyến rũ Tiểu thư, con gái duy nhất của quan. Y đã cuỗm theo bao nhiêu vàng bạc của phủ. Nghiêm trọng hơn hết, để dẽ dàng trốn chạy, y đã giết viên quản gia một cách rất thê thảm. Tội của y đáng phải chém đầu nhưng quan ra lệnh phải giữ kín, chưa tiện xin lính ở trên xuống bắt ông! Tôi đã xem qua các đồ ngọc người ta mang đến Nam Xương, ngoài ông ra không ai làm nổi. . . Đúng, ông thật sự là Trương Phố.
Còn nước còn tát Trương Phố gằn từng câu:
- Hừ ở đời này đâu chỉ có mình Trương Phố của ông mới là người giỏi đâu?
Chán vạn người khác còn giỏi hơn nhiều.
- Tôi nghi ông và được quyền bắt ông để giải về phủ Khai Phong, mọi việc trắng đen sẽ tính sau. Tôi có biết mặt Trương tiểu thư. Nếu ông nói, ông không phải là Trương Phố. Xin hãy coi tôi là người khách, nhờ bà đem mời tôi một tách nước trà. Đúng hay không đúng, biết liền. . .
Trương Phố tê tái, không còn cách nào khác nữa, Chàng dục hoãn cầu mưu:
- Việc đó thì rất dễ dàng nhưng hiềm nỗi giờ này nhà tôi dẫn mấy nhỏ sang Giang Tô ăn giỗ bên ngoại rồi, có lẽ cũng vài ba hôm, mong bữa khác ông trở lại.
- Được, hôm nào bà về, tôi sẽ tới.
Người đàn ông vừa bước ra khỏi tiệm. Vợ chồng Trương Phố hoảng hồn vội vàng bàn tính với nhau, thu xếp các báu vật, thuê một con thuyền, ngay đêm hôm ấy, bỏ nhà bỏ cửa, xuống thuyền chạy trốn. Họ xuôi theo dòng sông.
Hơn một tháng bềnh bồng trên sông nước. Thuyền tới Cẩm Sơn thì thằng bé bị bệnh phải đỗ thuyền lại để bốc thuốc. Tiền mặt đã hết. Trương Phố phải mang bán một trong những đồ vật chàng sáng tác. Đó là một con chó bằng ngọc ngồi ngủ gật, một mắt nhắm, một mắt mở, một tai cúp, một tai vểnh trông rất buồn cười.
Người mua là ông Hoa Vạn, một ông lão buôn ngọc có lòng tử tế và rất thạo nghề. . .
- Chà, ngọc Bảo Hồ ở Kế An đây mà! Chỉ có Bảo Hồ mới làm được những thứ như thế này. Tôi đang tìm mua. Làm sao ông có thứ này?
Trương Phố nói dối nhưng trong lòng chàng có chút tự hào:
- Nhà ông tinh thật đấy. Ngày trước tôi có nhờ người bạn đi qua Kế An mua cho. Nay túng tiền đem bán.
Cẩm Sơn còn gọi là Cam Tuyền, là một thị trấn nhỏ, nằm dưới chân một rặng núi cao. Phong cảnh, với một bên là sông nước bao la, một bên là núi non hùng vĩ, một cảnh non bồng nước nhược. Trương Phố bàn với vợ:
- Ở đây phong cảnh hữu tình, chú nhỏ đã lành bệnh, chúng ta mua một căn nhà thật xa.
Lan nghe lời. Sau đó ít lâu, Trương Phố lại bàn:
- Chúng ta nên mở một tiệm bán ngọc đi Lan à.
Lan giật mình:
- Trời ơi, anh chưa biết sợ hay sao? Sao anh cứ nghĩ đến ngọc đến ngà như thế. Gia đình ta đã thoát được như thế này, anh đừng để ý tới ngọc nữa. Chẳng lẽ đối với anh, ngọc lại giá trị hơn cả em và con hay sao?
Lan ngồi khóc. Trương Phố băn khoăn:
- Anh sẽ chiều mình, không làm ngọc nữa, nhưng anh có thể nặn đất sét, hay làm đồ sứ được không?
Lan ngao ngán nhìn chồng gật đầu.
Trương Phố lại sắm dụng cụ, lập lò nung, rồi chàng mua những loại đất sét tốt, hì hục nặn những pho tượng Phật phơi đầy sân và chuẩn bị đưa vào lò nung.
Những lúc ấy, chàng thường ra bến đò, gặp gỡ các lái buôn trên Ộ Con đường ngọcỢ Con đường này chạy dài từ Giang Tây, băng ngang qua tỉnh Quảng Đông, xuyên qua Kế An, Cẩm Sơn rồi tới các đồng bằng phì nhiêu ở phía Đông nam. Chàng rất thèm khát được sờ tay trên những thứ đá quý đó.
Có một lần lang thang trong thành phố, dán mặt vào những cửa kính của cửa hàng sang trọng, trong đó chỉ là những ngọc bình thường. Trương Phố thấy lòng xót xa, chàng về nhà, thấy mấy bức tượng bằng đất sét, bỗng nhiên giận dữ, vung chân đá bẹp dí các pho tượng:
- Đồ bùn đất vô giá trị này, tại sao người ta lại xếp mi là những nghệ thuật điêu khắc nhỉ? Ta, Trương Phố, muốn sáng tác những tác phẩm để đời, ta không cần tính mạng của ta nữa!
Mỹ Lan ứa nước mắt, nàng lắc đầu , thở dài:
- Anh yêu nghệ thuật hơn chính mạng sống của mình. Rồi những thứ mà anh đam mê đó, nó sẽ giết chết hạnh phúc và hủy diệt gia đình chúng ta_ Nàng lại khóc_ Anh ơi! Anh ơi!. .. Tôi là vợ, tôi biết trước việc dữ thế nào cũng sẽ đến nhưng không làm sao cản được.!
Trương Phổ ôm đôi vai thon nhỏ của người vợ:
- Thôi được rồi. Giữa tình yêu nghệ thuật và tình yêu của chúng ta, Anh chọn em và con! Anh sẽ nghe theo lời em. Chỉ có em và con là quan trọng đối với anh mà thôi.
Hàng ngày, chàng vẫn thường ra bờ sông, nhìn những người trao qua trao lại hàng ngọc cho nhau, nhìn sông nước bao la.
Cho đến một hôm. . .
Ông Lão Vạn lại tìm đến, nhờ chàng xem giúp ông ta vài món ngọc.
- Ông coi này, tôi mới ở Kế An về
Vừa nói, ông vừa mở một chiếc hộp có gói ghém cẩn thận:
- Đúng là tiệm Bảo Hồ đóng cửa thật rồi, nhưng tôi có mua những thứ này ở tiệm khác. Họ bảo đó là phẩm vật xuất xứ từ Bảo Hồ.
Trương Phố không thèm nhìn vì chàng biết đó là những vật giả mạo, nhưng khi nhìn thấy hình con khỉ ăn cắp trái đào thì chàng bỗng như nổi cơn điên:
- Đồ giả mạo! Trông chẳng ra hồn gì cả! Tượng ngọc, dù cho nhỏ hay lớn phải có hồn. Ngọc Bảo Hồ là những loại sản phẩm có hồn, lão biết không?
- Tôi biết, tôi biết. À mà quên, con chó tôi mua của ông, tôi bán giá gấp mười, thế mà thiên hạ vẫn tranh nhau mua đấy. Ông còn không? Bao nhiêu tôi cũng xin mua.
Tai Trương Phố lùng bùng:
- Tôi sẽ cho ông coi hàng của Bảo Hồ, những sản vật này mới là hàng chính.
Chàng dẫn ông Vạn về nhà, đưa cho ông coi tượng con khỉ ăn cắp đào. Ông ta năn nỉ gẫy cả lưỡi. Trương phải bán cho ông ta.
Mỹ Lan lại ngao ngán nhìn chồng.
Lên Nam Xương, lão Vạn hí hửng đem khoe với cánh lái buôn. . .
- Kỳ quá nhỉ, tại sao chủ tiệm đất sét lại có ngọc Bảo Hồ cơ chứ?
Thấy chẳng có ai tin, ông phân bua:
- Thật mà, tôi mua được hai con, nhưng tôi biết ông ta còn cất giữ nhiều lắm.
Từ đó tiếng đồn vang xa, tất cả những người đang thèm khát ngọc Bảo Hồ dồn về thị trấn Cam Tuyền . Trong đó có người lục sự đi cùng với ba người lính.
Họ đã đến, lần này để bắt cho bằng được Trương Phố và Mỹ Lan. . .
Mỹ Lan biết không còn cách nào khác, ngoài cách cứu sống chồng nàng. Viên lục sự lại biết mặt nàng. Mỹ Lan nói:
- Tôi cần phải thu xếp những đồ dùng cho con tôi nữa, cháu còn bé, đường thì xa, nó là cháu ngoại của quan Đại thần, nhỡ nó có mệnh hệ nào, các ông cũng lãnh một phần trách nhiệm đó.
Viên lục sự đã được quan dặn nhỏ là đối với Mỹ Lan phải đối xử tử tế, nên bằng lòng.
Vợ chồng Mỹ Lan vào nhà trong. Chuẩn bị đâu đấy xong xuôi. Lan lấy cái ruột tượng đựng các bảo vật , chính nàng khoác chéo vào ngực chồng, rồi mở cánh cửa sau. Giọng nàng đẫm nước mắt:
- Vĩnh biệt anh, vĩnh biệt tình yêu.
Trương Phố nấn ná:
- Anh muốn chết bên cạnh em và con. Anh muốn đền tội với em. Chỉ vì anh. . .
Nhưng Mỹ Lan cứ đẩy chồng ra phía vườn sau:
- Em dặn mình, lời cuối: Đừng bao giờ đụng tới ngọc nữa!
Chàng gật đầu vừa khóc vừa chạy. Khi đã ra khỏi khu vườn chàng còn ngoảnh lại, chàng biết lần này chẳng bao giờ chàng còn gặp lại hình bóng thân yêu này nữa. Chàng chỉ thấy khuôn mặt thẫn thờ của vợ, thân hình nàng như đang chới với. Một tay giơ lên cao, đưa ra đằng trước, đầu và cánh tay trái ngả sang một bên, như kiệt sức, như vĩnh biệt, như đang níu kéo nỗi tuyệt vọng, như đang xót xa cho số phận của nàng, của người chồng trăm năm cay đắng.
Thấy họ thu dọn quá lâu, mấy người đàn ông nóng ruột tông cửa chạy vào. Chỉ thấy đứa bé đang ôm lấy mẹ. Còn người mẹ thì đang nức nở. . .
Mỹ Lan và con được đưa về Khai Phong phủ, mẹ nàng đã mất từ lâu, cha nàng thì đã già nhưng cả người của ông vẫn toát ra vẻ oai vệ. Lan ứa nước mắt nhìn cha già. nàng lậy cha:
- Thưa cha con đã về. Xin cha thương con, thương lấy cháu. . .
Người nữ tì dắt đứa bé đến bên cạnh, nàng giúp con làm lễ tương kiến ông ngoại. Ngài vẫn ngồi yên trên ghế, nhưng gương mặt đã phảng phất vẻ hài lòng. Ông nhìn đứa bé, nó trông xinh xinh quá. Giống cả cha lẫn mẹ. Ngài hơi nhúc nhích, chìa một ngón tay ra cho nó nắm lấy tay ông ngoại.
Người lục sự rạp đầu xuống đất nhận tội về việc sơ ý để tội phạm trốn thoát. Ánh mắt ngài lộ vẻ đăm chiêu, dường như lưỡng lự:
- Thôi được! Có lẽ chẳng bao giờ ta tha cho nó. Tiếp tục đi tìm nó đem về chém đầu. Ta sẽ thưởng công thật lớn cho các ngươi khi hoàn thành công việc.
Đoạn ngài nhíu mày:
- Cái thằng vô ơn bạc nghĩa, đã phạm tội giết người còn phá hoại gia đình của nhà ta. Ta không thể tha cho nó đâu!
Thời gian dần dần, Lan vẫn ngóng trông tin tức của chồng, nhưng tin về Trương Phố vẫn bặt tăm. . .
Một hôm có quan Tổng đốc họ Dương cùng với đoàn tùy tùng trên đường tiến kinh, ghé lại Khai Phong thăm bạn. Quan Khâm sai rất mừng, mở tiệc khoản đãi. Trong khi ăn uống, quan Tổng đốc cho biết có đem tiến kinh một pho tượng rất đẹp cùng cỡ với pho tượng trước đây quan Khâm sai dâng Hoàng hậu. Nhưng theo ngài Tổng đốc, bức tượng này đẹp và ý nghĩa hơn bức tượng trước.
Ai cũng cho ra quan Tổng đốc nói quá, chứ cho đến nay, chưa có một bức nào qua mặt được pho tượng Hoàng hậu đang có.
Tiệc tàn, nữ tì dâng trà, quan Tổng đốc bèn cho bưng vào một chiếc gỗ lớn bằng gỗ quí, có các góc đều có cẩn bằng ngọc. Đích thân ngài tự mở hộp và đặt trên bàn
- Ồ! Trời ơi!
Mọi người trợn tròn mắt nhìn pho tượng rồi nhìn nhau kinh ngạc. Ngay người nữ tì bưng trà cũng phải sững sốt. Nó chạy vào báo tin với tiểu thư Mỹ Lan. Qua bức rèm mở hé. Mỹ Lan tái mặt, miệng lẩm bẩm như trong mơ. Cô không còn tin vào mắt mùnh nữa. Cô muốn ngã khụy. . .Ợ Chàng ơi, đúng là chàng rồi, chỉ có chàng mới tạc được hình ảnh của em. Chàng yêu em đến thế ư?Ợ
- Nghệ sĩ nào mà tuyệt vời thế, thưa quan huynh?
Vị Tổng đốc hơi kiêu hãnh, cố tình chậm lại để mọi người phải sốt ruột. Ngài chiêu một hớp nước rồi chậm giãi kể.
. . .Người nghệ sĩ này không phải tay tầm thường, Chỉ hiềm nỗi tôi không biết danh tánh. Tôi gặp anh ta trong một trường hợp đặc biệt. Số là có con cháu họ của phu nhân nhà tôi đi dự đám cưới. Nó mượn của phu nhân một vòng ngọc gia truyền, mà phu nhân tôi rất quý ít dám dùng tới. Đó là một cặp giống nhau, trên có khắc hình tứ linh. Chẳng may, nó đánh vỡ mất một cái. Nó vô cùng lo sợ, đi tìm tất cả tiệm bán ngọc, không ai làm nổi một chiếc khác thế vào. Cuối cùng, một yết thị được dán trước cửa Đông, đặt một số tiền thưởng lớn, hoa may ra. . .Ít lâu sau, một người nghệ sĩ tìm tới. Ông ta trông còn trẻ nhưng y phục trông vẻ nghèo nàn khiến con bé vô cùng thất vọng. Nó nghĩ bụng, một người có tài thường phải giầu hay có cuộc sống tương đối. Ông ta xem kỹ xong. Ông ta cười:
- Tiểu thư muốn làm một cái giống hệt như thế này, hay hai cái khác đẹp hơn.
- Tôi muốn làm một cái đúng như thế này mà thôi.
Ông ta lại mỉm cười.
- Chẳng khó khăn gì với tôi cả, Tôi còn có thể điêu khắc được những pho tượng trong cung đình nữa cơ mà. . .
Chiếc vòng hoàn thành. Con bé kêu lên ngạc nhiên, nó cứ ngắm nghía mãi không thể phân biệt được cái nào cũ, cái nào mới. Lúc đem trả, phu nhân cũng không thể biết. Tôi trách con bé sao không hỏi danh tánh ông ta. Nó nói ông ta bảo với nó rằng :
- Tôi là một người không nhà không cửa, không có quyền nêu danh tánh. Khi nào cần, cô cứ ra chợ nhắn Ộ Người thợ ngọc vô danhỢ là tôi tới.
Quan Tổng đốc ngừng lại một lát rồi tiếp
- Khi biết tin Hoàng hậu muốn có một pho tượng nữa, tôi bèn nghĩ ngay đến ông ta. Một mặt tôi cho tìm ông ấy, một mặt tôi ra lệnh tìm mua trên Ộ Con đường ngọcỢ một khối ngọc tốt và lớn.
Ông ta tới, vẫn quần áo tầm thường, điệu bộ lấm lét như một người đang trốn tránh. Tôi vừa buồn cười, vừa thương hại. Tôi mô tả hình dáng pho tượng mà trước đây Trương huynh đã dâng Hoàng hậu. cặp mắt ông ta sáng lên, một thứ ánh sáng kỳ bí, nửa vui mừng, nửa nuối tiếc.
Ông ta ngồi xuống xem lại khối đá ngọc. Ông ta ứa nước mắt:
- Trình quan lớn. Suốt trong đời tôi, tôi chỉ mơ ước sờ lên được khối ngọc tuyệt vời như thế này. Tôi sẽ đưa cả hồn tôi, cả người tôi yêu dấu vào nó. Nó sẽ là pho tượng đẹp nhất trần gian. Tôi chỉ xin ngài cho tôi tự do, không ai dòm ngó quấy rầy tôi cả. Tôi sẽ không lấy của ngài một đồng xu. . .
Tự do ! Tôi biết người nghệ sĩ muôn đời chỉ khao khát thứ ấy thì họ mới sáng tác được, phát huy được tim óc của mình.
Tôi gật đầu ưng thuận
Ba tháng sau, khác với dự đoán của tôi là anh ta phải mất ít nhất là sáu tháng. Anh ta đã hoàn tất và đem lên phòng của tôi. Đặt ngay trước mặt tôi, với vẻ rất hãnh diện.
- Chao ơi ! Tôi đã bàng hoàng rồi ngẩn ngơ khi nhìn pho tượng. Trong đời tôi, tôi chưa từng thấy một kiệt tác nào như thế cả. Trong khi tôi đang xúc động, thì ông ta đeo chiếc túi vải lên vai :
Thưa Thượng quan, tôi xin cám ơn ngài đã cho tôi để thỏa lòng mong ước của tôi: Tôi đã ghi lại được hình bóng người tôi yêu, trong hình tượng này. . Bây giờ xin phép Thượng quan tôi đi, Tôi không cần tiền bạc gì cả.
Tôi cứ ngẩn ngơ ngồi trên ghế, không hiểu ông ta nói cái gì, chỉ mang máng là hình như ông ta giã từ tôi. Tôi vốn chậm chạp lại bị thấp khớp, nên khi kiếm được đôi dép để chạy ra kêu gia nhân rượt theo. . . Thì ông ta đã mất hút . .
Đấy câu chuyện về người nghệ sĩ tài danh ấy là như thế đấy..
Trong khi quan Tổng đốc chiêu một hớp trà. Thì bỗng có tiếng kêu, như tuyệt vọng từ trong phòng:
- Trời ơi! Chàng ơi!
Quan Khâm sai biết chuyện chẳng lành xẩy ra cho con gái. Ông chạy vào, thấy Mỹ Lan đang từ từ quỵ xuống đất, rồi nàng năm sõng soài trên mặt đất. . .
Quan Tổng đốc ngạc nhiên hỏi :
- Chuyện gì vậy?
Một thực khách ngồi bên ghé tai nói nhỏ:
- Người nghệ sĩ mà ông vừa nói chính là Trương Phố, chồng của Tiểu thư con quan Khâm sai.
Rồi ông ta kể cho quan Tổng đốc về nỗi oan khuất và cảnh đoạn trường họ phải trải qua.
Tỉnh dậy, Mỹ Lan xin phép cha mình cho ra ngoài để tận mắt nhìn ngắm pho tượng. Nàng vân vê từng nét, từng nét, nàng hôn lên mái tóc của nó, hôn lên trán, hôn lên má, hôn lên môi trong tiếng nấc nghẹn ngào và những dòng nước mắt tuôn rơi. . .
Cả một đại sảnh to lớn như vậy, không ai là không rơi lệ. Quan Tổng đốc bị xúc động hơn hết, ông đứng bật dậy, cầm pho tượng trao cho Mỹ Lan:
- Con gái thương yêu của ta! Ta đã hiểu rõ tất cả, ta càng hiểu hơn sức mạnh của tình yêu và nghệ thuật, vật báu này là của con, con cứ giữ lấy nó. Với khả năng của ta, ta có thể kiếm tìm một vật khác để dâng Hoàng hậu. Với mọi người đó chỉ là một đồ trang sức nhưng với con, nó rất linh thiêng và gần gũi, nó còn là nguồn an ủi trước khi con được đoàn tụ với chồng.
Tiệc tan, người ta vẫn còn thấy hai ông quan, hai mái đầu bạc trắng còn đang rì rầm tâm sự.
Từ dạo đó, Mỹ Lan mỗi ngày một mòn mỏi, sự trông chờ của nàng như một ngọn đèn sắp hết dầu. Như có một loại vi trùng, đang gậm nhấm cơ thể héo hắt của nàng. . .
Quan Khâm sai, chắc do lời khuyên của quan Tổng đốc đêm nào, phần do thương con. Ông tuyên bố xá tội cho Trương Phố, rồi một năm sau, ông cùng một đoàn tùy tùng xuống tận Quảng Đông thăm quan Tổng đốc rồi nhờ quan hỏi thăm tin tức, tìm kiếm Trương Phố.
Nhưng chàng vẫn biền biệt.
Hai năm sau đó. Định mệnh chưa buông tha cho Mỹ Lan. Một cơn dịch hoành hành tại Khai Phong cướp mất đứa con của nàng. Không còn gì để bám víu. Nàng đã cắt tóc đi tu. Hành trang nàng mang đến cửa thiền chỉ có mỗi một pho tượng ngọc.
Theo như những tu sĩ cùng ở trong chùa nàng luôn luôn đóng chặt cửa phòng, không cho bất cứ ai được vào trong ấy. Nàng thức rất khuya, âm thầm ngồi viết những điều gì trên giấy, rồi sáng nàng lại đốt chúng đi.
Khoảng hai mươi năm sau, người nữ tu Trương Mỹ Lan đã từ giã cõi đời. Thân xác nàng thì đã tan rữa, nhưng pho tượng ngọc vẫn còn mãi để chứng minh cho hậu thế sức mạnh của tình yêu.
Hết
Mot So Truyen Ngan cua Lam Ngu Duong
Pho tượng Quan Âm
Vượt qua được ba chặng sông Trường Giang lên mạn ngược quả thật kinh tâm động phách, nguy hiểm vạn phần. Dẫu sao cuối cùng tôi cũng đến được phủ đệ của viên tri phủ từ quan về ở ẩn nơi đây. Ông này là người nổi danh trong giới sưu tầm cổ ngoạn, bút thiếp và tranh vẽ. Có người bảo rằng khi còn tại quyền, ông ta lắm phen lợi dụng thế lực để cưỡng đoạt nhiều món đồ cổ quí giá. Mỗi khi ông ta chủ tâm lấy món gì, dù đồng khí hay tự họa, nếu dùng tiền mua không xong thì phải đủ mọi cách có bằng được mới thôi. Người ta kể rằng nhà kia không chịu bán một món đồ đồng đời Thương, ông ta đã làm cho họ phải nhà tan, người chết. Những điều ấy thật khó mà kiểm chứng, hoặc có khi vì ghét bỏ mà người ta bịa đặt không chừng, nhưng tính thích đồ cổ như chính mạng mình của ông ta thì ai cũng biết. Vả lại, trong bộ sưu tập của ông ta có những món trên đời hiếm thấy.
Viên hưu quan tiếp tôi tại căn phòng phía Tây. Đi qua ba dẫy nhà mới đến khách sảnh. Phòng khách của một người chuyên về cổ ngoạn mà sao chẳng có món gì đặc biệt ngoài những bàn ghế bằng gỗ gụ, trên mặt lót da báo. Nhưng toàn cục xem ra đầy vẻ phong nhã, giản phác chứng tỏ chủ nhà là người có khí tượng cao nhân. Tôi vừa tiếp chuyện, vừa quan sát chiếc bình màu huyết dụ, cắm một cành mai in lên nền núi cao ngoài song cửa. Sát bên phòng khách là một vườn hoa.
Viên tri phủ nói năng thật từ hòa, dễ mến. Có thể vì tuổi già nên ông không còn sắc mắc nhưng cứ như con người trước mặt thì thật khó mà có thể bảo ông ta tàn nhẫn như lời đồn. Ông ta tiếp tôi chẳng khác gì một người bạn cũ đến thăm. Còn tôi thì hơi nóng ruột vì những gì tôi dặn người giới thiệu tôi chuyển lời sao mãi không thấy nhắc tới, hay vị hưu quan vì tuổi già nên đã lẫn rồi chăng?
Tôi quả thực kính trọng con người này, dám về đây tự cất một căn nhà để tiêu dao ngày tháng. Vì thế tôi không thể đường đột mà chỉ lịch sự khen qua về những đồ cổ quí giá ông đã sưu tầm được mà thôi. Ông lão mỉm cười:
- Hôm nay thì người ta bảo là của tôi, nhưng một trăm năm sau thì lại về tay người khác rồi. Ông xem, có nhà nào mà giữ được một món đồ đến hơn trăm năm đâu. Đồ cổ cũng có số mệnh của nó, nếu nó biết, hẳn nó cũng cười chúng ta đấy.
Nói đến đây, dường như thú vị, ông già lấy ra một cái tẩu thuốc ngậm trên môi.
- Thật thế ư?
- Đương nhiên là thế.
Tôi e dè hỏi lại:
- Ngài nói như thế là nghĩa làm sao?
- Bất cứ món nào, hễ là đồ cổ đều có nhân cách riêng, sinh mệnh riêng.
- Tiên sinh nói vậy chẳng lẽ nó cũng có linh hồn ư?
Ông già hỏi ngược lại:
- Thế theo ông thì linh hồn là cái gì? Linh hồn chẳng qua là nói về cái đời sống, mà hễ có đời sống thì hẳn có linh hồn. Ví thử như một nghệ phẩm, người nghệ sĩ đem hết sức tưởng tượng và sinh lực của mình dồn vào đó, có khác gì người mẹ đem khí huyết của mình nuôi cái bào thai. Một khi sinh lực người nghệ sĩ đem vào tác phẩm, thì tác phẩm đó ắt có sinh mệnh, còn hoài nghi gì nữa? Có khi vì sinh mệnh của tác phẩm mà người nghệ sĩ phải mất mạng như trường hợp pho triển ngọc Quan Âm của tôi.
Tôi vốn dĩ chỉ muốn đến xem một bức viết danh quí, trước nay chẳng hề nghe nói đến triển ngọc Quan Âm, mà nói đúng ra chẳng mấy ai biết. Tôi chỉ vô tình hỏi không ngờ lại được nghe một câu chuyện lạ lùng. Khi ông ta nói về lịch sử của pho tượng này, tôi thật cũng chưa biết ông ta nói gì, nhưng cốt ý đến xem chữ nên tìm cách quay trở lại đề tài. Tôi chỉ tay lên một bức thủ cảo:
- Đương nhiên là trong tác phẩm phải thể hiện được phần nào con người của tác giả, và đó chính là một phần của con người lưu cho hậu thế rồi còn gì.
- Ông nói không sai, cái gì tốt đẹp cũng còn lại cái sinh mệnh cũng như nghệ gia có con có cháu vậy.
Viên tri phủ khi nói tới đây xem chừng tin vào quan điểm của mình lắm.
- Nếu như trong khi sáng tạo tác phẩm, nghệ gia phải hi sinh tính mạng của mình thì đó là trường hợp pho tượng ngọc của tiên sinh chăng?
- Pho tượng Quan Âm thì tình trạng lại đặc biệt, tác giả không chỉ vì tác phẩm mà chết, nhưng cái chết của ông ta thật cũng xứng đáng – vì hoàn thành được một tác phẩm như thế rồi nằm xuống thì cũng không uổng một đời.
Ngưng lại một chút, ông ta nói tiếp:
Nếu ông xem pho tượng này thì sẽ cảm thấy như vì tác phẩm mà ông ta sinh ra, rồi cũng vì tác phẩm mà phải hi sinh tính mệnh. Nếu không như thế, thật không thể nào hoàn thành được tác phẩm này.
Nếu thế ắt hẳn phải là một vật quí giá phi thường, chẳng hay chúng tôi có duyên được xem chăng?
Tôi phải khẩn khoản đến nửa ngày, ông lão mới bằng lòng cho tôi xem. Những đồ trân quí, ông ta để trên lầu hai, còn riêng pho tượng ngọc thì để tận lầu ba.
Tác giả của nó là ai vậy?
Tên ông ta là Trương Bạch, trên đời chẳng ai biết đến đâu. Tôi nghe được câu chuyện về đời ông ta từ nữ trụ trì ở am Kê Minh, và tôi phải hiến cho ni cô ở am này một tài sản lớn - cho mụ trụ trì già giảo hoạt - bà ta mới chịu giao cho tôi pho triển ngọc Quan Âm. Khi đó, người chủ của pho tượng này qua đời rồi, nó vào tay tôi thật đáng hơn ở trong am nhiều.
Pho tượng nhỏ được khắc bằng một khối ngọc cực kỳ trong trắng, đặt trên một cái bệ bằng ngọc xanh trong một cái hộp pha lê ngay giữa lầu ba, chung quanh có song sắt đúc hoa nặng nề, không ai lay nổi.
Ông thử đi vòng quanh mà xem, mắt pho tượng lúc nào cũng nhìn theo ông đấy.
Nghe ông ta nói, pho tượng này quả thực lạ thường. Tôi đi quanh một vòng, mắt pho tượng đích thực lúc nào cũng theo dõi tôi không ngoa. Thế nhưng hình dáng Quan Âm thật buồn, tưởng như diễn tả đúng vào lúc đang toan bay lên, một tay giơ cao, đầu hơi ngửng về phía sau, một tay phải đưa ra phía trước, linh động chẳng khác gì một nữ nhân hòa ái trong lúc thương tâm, tựa như Quan Âm bồ tát sắp bay lên trời còn cố giơ tay ban phúc cho chúng sinh. Thế nhưng nhìn vào khuôn mặt thì không cảm thấy hình ảnh giáng phúc. Một pho tượng chỉ cao mười tám phân, mà người điêu khắc nên nó có thể làm cho kẻ xem khó có thể quên vì ngay cả y phục cũng đặc biệt sáng tạo.
Tại sao người ni cô lại có được pho tượng này?
Ông nhìn kỹ tư thế của điêu tượng này, trong đôi mắt chứa đầy yêu thương, sợ hãi, thống khổ.
Nói tới đây ông ta ngưng lại một chút, rồi thốt nhiên tiếp:
Thôi mình xuống dưới lầu, tôi sẽ kể cho ông nghe từ đầu đến cuối.
*
* *
Người ni cô ấy tên là Mỹ Lan, khi sắp chết mới kể câu chuyện này. Cũng có thể bà ni cô trụ trì thuật lại cho tôi không hoàn toàn đúng, có thêm thắt cho câu chuyện thêm sinh động nhưng viên tri phủ ngoài việc đổi một số tên đất, xác quyết với tôi chuyện này không sai. Cũng theo như bà trụ trì, người ni cô này trầm mặc, ít nói, khi còn sống chẳng truyện trò với ai bao giờ.
Vào khoảng hơn một trăm năm trước, Mỹ Lan khi ấy là một thiếu nữ đang tuổi thanh xuân, sống trong trạch đệ quan trấn thành Khai Phong. Nàng vốn là con gái duy nhất của Trương thượng thư, xinh đẹp bội phần. Cha cô là người cực kỳ nghiêm chính, nhưng với con lại cưng chiều vô cùng. Cũng như bao nhiêu quan to thời đó, trong gia phủ có rất nhiều họ hàng thân thích ở, người nào biết chữ thì làm việc quan, người nào dốt nát thì làm việc nhà.
Một hôm, có một đứa cháu họ xa đến Trương phủ. Tên anh ta là Trương Bạch, rất thông minh, hoạt bát đầy vẻ tinh anh. Tuy mới mười bảy tuổi nhưng thân hình cao lớn, ngón tay búp măng dài, không có vẻ nào một cậu bé nhà quê. Cả phủ ai cũng mến anh ta nhưng ngặt vì không biết chữ nên phu nhân giao cho Trương Bạch việc tiếp khách.
Anh ta hơn Mỹ Lan một tuổi, cả hai đều còn trẻ con, thường hay chơi đùa với nhau. Trương Bạch hay kể chuyện đồng quê cho Mỹ Lan nghe và cô nàng thích lắm. Qua độ hơn mười ngày, mọi người đã bớt vồn vã, phần vì chàng ta tính tình lạ lùng thích tìm nơi cô tịch, phần khác lơ đễnh hay quên việc, nên thường bị mắng. Vì thế phu nhân cho anh ta ra coi vườn và xem chừng Trương Bạch thích việc này hơn.
Trương Bạch vốn là kẻ trời sinh thích sáng tạo, không thích theo lối người thường học hành. Được sống chung với chim chóc, cỏ hoa có vẻ thích thú, vừa đi vừa gọi, tưởng như một vì chúa tể quần sinh. Nếu không ai để ý đến anh chàng thì anh ta lại làm được nhiều điều lạ. Không ai dạy mà anh ta biết vẽ. Khi rảnh rỗi anh ta làm được những chiếc đèn lồng tuyệt đẹp, hay lấy đất sét nặn chim nặn thú trông như sống thực.
Đến năm mười tám tuổi, xem ra anh ta vẫn chẳng có gì gọi là sở trường. Thế nhưng vì đâu mà lôi cuốn Mỹ Lan, nàng cũng không biết nữa. Trương Bạch thân hình cao ráo, thanh tú, ngoài cha cô ai ai cũng mến gã. Hai anh em họ ngày càng thân nhau, nhưng một điều rõ ràng là hai người cùng họ làm sao có thể lấy nhau.
Một hôm, Trương Bạch nói với phu nhân anh ta muốn đi kiếm nghề để học. Anh ta đã kiếm ra một cửa hiệu bán ngọc khí, và đã nói với người ta để xin học việc. Phu nhân thấy vậy cũng ưng vì càng ngày anh ta và Mỹ Lan xem càng thân thiết quả không hay. Tuy nhiên Trương Bạch vẫn sống trong phủ, tối tối lại về và càng có nhiều chuyện để kể cho Mỹ Lan nghe.
Phu nhân mới nói với con rằng:
Mỹ Lan, con và biểu huynh con đều đã lớn khôn, tuy là anh em họ, nhưng hai người không được gặp nhau nữa.
Nghe mẹ dặn, Mỹ Lan càng nghĩ càng buồn. Trước đây nàng chưa bao giờ nghĩ rằng mình đã yêu Trương Bạch. Tối hôm đó, nàng vào hoa viên gặp anh ta. Ngồi dưới ánh trăng, trên một phiến đá, Mỹ Lan nói cho Trương Bạch nghe lời mẹ.
Này anh Bạch, mẹ em dặn là em không được gặp anh nữa.
Nói đến đây, hai má nàng ửng hồng.
Đúng rồi, chúng ta đều đã lớn.
Cô gái cúi đầu làm như tự hỏi mình:
Thế ư, vậy là thế nào?
Trương Bạch choàng một tay qua lưng Mỹ Lan nói:
Thế có nghĩa là em càng ngày càng làm cho anh say mê, càng ngày càng làm cho anh muốn gặp. Nếu em ở bên cạnh anh, anh thấy vui sướng, nếu em không ở bên anh, anh thấy tịch mịch thê lương.
Mỹ Lan thở dài hỏi lại:
Thế bây giờ anh vui lắm ư?
Giọng Trương Bạch trở nên trìu mến:
Phải rồi. Có em ở bên cạnh, tâm hồn anh xao xuyến khác thường. Mỹ Lan, em là của anh mà anh cũng là của em.
Chắc anh biết rồi, em không thể nào lấy anh được. Chẳng bao lâu cha mẹ em sẽ gả chồng cho em.
Đừng em, đừng nói chuyện ấy.
Thế nhưng anh cũng nên biết như thế chứ.
Anh chỉ biết cái này thôi.
Nói đến đây Trương Bạch kéo Mỹ Lan vào lòng:
Từ thuở khai thiên lập địa, em vì anh mà sinh ra, anh cũng vì em mà có mặt trên đời, anh không bao giờ để em đi. Anh yêu em không biết bao nhiêu mà kể.
Mỹ Lan vùng ra khỏi tay Trương Bạch, đi một mạch về phòng.
Tình yêu chớm nở trong tuổi thanh xuân thật bồi hồi, mà khi cả hai bên đều hiểu rằng họ ở trong một hoàn cảnh ngang trái thì lại càng thấy thấm thía mùi vị vừa ngọt ngào, vừa đắng cay. Đêm hôm ấy, Mỹ Lan trằn trọc, khi thì nghĩ đến lời mẹ dặn, khi thì nhớ lại những gì Trương Bạch nói với mình lúc ban chiều, như chỉ một đêm mà nàng trở nên khác hẳn. Hai người càng muốn thoát ra khỏi sợi dây ái tình, càng thấy mình bị trói chặt. Cả hai cùng cố tránh mặt nhau. Ba ngày sau, Mỹ Lan e e ấp ấp đến kiếm Trương Bạch. Vì hai người chỉ lén gặp nhau, lửa tình càng thêm mãnh liệt. Hôm ấy, ái tình của tuổi xuân, êm đềm của nuối tiếc, sâu xa của thề nguyền, ngọt ngào hơn, mà cũng đắng cay hơn. Hai người cùng biết rằng họ không thể nào cưỡng lại được quyền của đấng sinh thành. Nhưng họ không biết phải làm gì, chỉ biết yêu.
Cứ như phong tục thời ấy, cha mẹ Mỹ Lan ngấm nghé một thư sinh cho con nhưng nàng cực lực từ chối. Có lần nàng còn nói nàng không muốn lấy chồng khiến cho mẹ nàng giật mình. Nhưng Mỹ Lan tuổi cũng còn nhỏ, nên hai ông bà cũng có ý muốn để nàng ở nhà thêm vài năm.
Trong thời gian ấy, Trương Bạch vẫn tiếp tục đi học nghề. Trong nghề khắc tượng, anh ta cảm thấy mình có thiên tư, chẳng khác gì một người được sinh ra để làm việc này, nên chẳng bao lâu đã trở thành một người thợ xuất sắc. Anh ta mê điêu khắc lạ lùng, mỗi khi làm việc quên ăn quên ngủ, ngay cả những chỗ tỉ mỉ nhất cũng thập toàn thập mỹ, khiến cho ông thầy dạy cũng phải kinh ngạc. Những nhà phú quí càng ngày càng đến đặt mua nhiều hơn.
Một hôm, nhân lễ thọ của hoàng hậu, cha Mỹ Lan quyết định dâng một lễ vật tuyệt hảo, nên tìm được một khối ngọc lớn, loại thượng đẳng. Theo ý của phu nhân, ông tự mình đem đến nơi Trương Bạch làm việc nói rõ nguyên nhân. Khi xem những tác phẩm của anh ta, ông càng thán phục.
Này cháu, đây là một lễ vật dâng lên hoàng hậu, nếu cháu làm khéo, ta sẽ thưởng một món tiền lớn.
Trương Bạch xem kỹ khối ngọc, lấy tay vuốt ve tảng đá chưa từng đẽo gọt, trong lòng vui sướng vô cùng. Chàng nói rằng đã lâu vẫn mong có cơ hội tạc một pho tượng Quan Âm, và tin rằng sẽ hoàn thành một nghệ phẩm cổ kim chưa từng có.
Trong khi điêu khắc, Trương Bạch không cho ai xem và khi xong, quả nhiên pho tượng Quan Âm là một tác phẩm tuyệt hảo, đúng qui củ từ xưa truyền lại. Từ nghi thái, phong tư, chỗ nào cũng hoàn toàn. Hơn nữa chàng còn làm được một điều chưa ai có là ở hai tai pho tượng khắc hai vòng đeo chuyển động được. Trái tai cũng thật tinh xảo, chỗ dày mỏng, chỗ lên xuống chẳng khác gì người thật. Thêm một nét, khuôn mặt pho tượng y hệt Mỹ Lan.
Viên thượng thư vui mừng không sao kể xiết. Trong bao nhiêu bảo vật của hoàng cung, không gì có thể sánh với pho tượng này. Ông bảo:
Khuôn mặt cháu khắc sao giống hệt Mỹ Lan.
Trương Bạch đắc ý đáp:
Dạ đúng vậy. Chính nàng là cảm hứng cho cháu.
Ông quan thưởng cho Trương Bạch một món tiền lớn, rồi tiếp:
Thôi, từ nay sự thành danh của cháu không còn là vấn đề nữa. Ta đã cho cháu cơ hội này, vậy phải biết ơn ta nhé.
Trương Bạch thế là đã nổi tiếng, nhưng điều tâm nguyện của chàng lại chưa thành. Thành danh mà làm gì nếu không có được Mỹ Lan. Chàng biết rằng nguyện vọng ấy không sao thành được, nên làm việc không còn hứng thú, nhiều mối hàng lớn cũng chẳng buồn nhận. Chẳng biết sao hơn, ông chủ phường khắc chỉ còn có nước thở dài.
Đến nay, Mỹ Lan đã hai mươi mốt tuổi, đáng lẽ phải là tuổi vui tươi của một thiếu nữ chưa chồng. Đúng lúc ấy, có người đã mai mối nàng cho một gia đình rất thế lực, và nàng không còn cách gì lần khân được nữa. Chẳng bao lâu hai bên đã cử hành lễ đính hôn, troa đổi lễ vật cực kỳ long trọng.
Mỹ Lan và Trương Bạch thất vọng vô cùng, tưởng muốn phát điên nên bàn nhau trốn đi. Mỹ Lan tin rằng tài nghệ của Trương Bạch chắc đủ nuôi thân nên chỉ đem theo một ít tư trang, tính sẽ đi đến một nơi thật xa sinh sống. Hai người định một đêm kia sẽ theo vườn hoa phía sau mà đi. Nào ngờ đêm ấy, một lão bộc nhìn thấy hai người ở trong hoa viên nên đâm nghi, vì chuyện hai người thì cả nhà ai ai cũng rõ. Ông lão không muốn để cho phủ quan thượng thư mang tiếng xấu nên ra giữ chặt Mỹ Lan lại. Không cách gì hơn, Trương Bạch xô lão ra. Tuy lảo đão, lão nhất định không buông, chàng bèn đấm cho một quả. Ông ta ngã văng vào tòa giả sơn, đầu đập vào một cạnh đá, gục xuống tắt thở. Hai người thấy ông ta chết, hoảng sợ vội chạy ngay.
Sáng hôm sau, trong nhà phát hiện hai người tư bôn, ông lão bộc táng mệnh. Quan thượng thư giận đến cực điểm:
Ta nhất định sẽ cho tìm khắp thiên hạ đem chúng nó về giải quan trị tội.
Khi ra khỏi kinh đô, đôi nhân tình không dám ngừng bước, cứ đi thẳng nhưng tránh những thành thị lớn. Vượt sông Trường giang, vào đến Giang Nam. Trương Bạch nói với Mỹ Lan:
Anh nghe nói Giang Tây có nhiều ngọc đẹp.
Mỹ Lan ngần ngừ hỏi lại:
Anh vẫn còn định khắc ngọc sao? Nét khắc của anh ai cũng nhận được, chỉ nhìn qua là biết thôi.
Trương Bạch nói:
Thế mình chẳng định khắc ngọc kiếm sống là gì?
Đó là chuyện tính khi lão Đái không chết. Bây giờ ai cũng cho là mình mưu sát lão. Anh làm việc khác không được sao? Như làm đèn lồng hay nặn đất sét anh vẫn làm thuở nào?
Chẳng lẽ anh lại làm những việc ấy. Anh đã nổi danh khắc ngọc rồi mà!
Thì chính là phiền ở chỗ đó.
Anh nghĩ rằng mình không nên lo quá. Giang Tây cách kinh đô cả hơn nghìn dặm, chắc chẳng ai biết đến mình đâu.
Hay anh đổi cách đi, đừng khắc cái gì thật đẹp, chỉ cốt sao bán được là đủ rồi.
Trương Bạch cắn môi, không nói một lời. Chẳng lẽ chàng cũng như bao nhiêu người thợ ngọc tầm thường khác, ẩn tính mai danh, sống thừa sống nhục? Chính mình hủy diệt nghệ thuật của mình chăng? Hay để cho nghệ thuật hủy diệt mình? Quả thực chàng chưa hề nghĩ đến tình cảnh này.
Thế nhưng trực giác của đàn bà không sai. Mỹ Lan e rằng điêu khắc những vật tầm thường không hợp ý chồng. Sau khi qua khỏi Trường Giang, một sức mạnh vô bờ lôi cuốn Trương Bạch khiến hai vợ chồng theo đường cái quan đi Giang Tây. Từ Giang Tây họ đi qua những ngọn núi hùng vĩ tỉnh Quảng Đông, qua các đồng bằng. Hai người không ngừng ở Nam Xương mà đi thẳng tới Cát An. Khi tới Cát An, người vợ lại năn nỉ xin chồng cải trang. Xứ Giang Tây nổi tiếng về đất sét, có những đồ sứ tuyệt đẹp. Nhưng làm đồ sứ Trương Bạch cũng không hài lòng, chàng nói:
Nếu có làm đồ sứ, người ta cũng nhận ra tài của anh. Ở đây có làm đồ ngọc chắc cũng không sao đâu.
Lời đề nghị đó ngược với linh tính của đàn bà. Mỹ Lan chẳng biết sao hơn, đành chiều ý chồng. Nàng nói:
Anh ơi, vì em trăm lần ngàn lần anh đừng nổi danh nữa nhé. Hai đứa mình hiện đã khổ sở đến mức này, nếu như anh lại nổi danh thì mình chỉ còn có chết mà thôi.
Mỹ Lan sợ mà nói như thế, nhưng nàng cũng hiểu rằng, chồng nàng nếu không hoàn thành những vật thập toàn thập mỹ, thì đâu chịu cam lòng. Chàng là người yêu thích vẻ đẹp, có trình độ nghệ thuật cao siêu, lại tự hào về tác phẩm của mình, thêm lòng đam mê ngọc khí. Tránh sai dịch bắt bớ hay không là ở chàng. Thật là đầy đắng cay trong cái bi kịch này.
Trương Bạch lấy châu báu của vợ bán đi, mua về đủ các loại ngọc khác nhau mở một tiệm nhỏ. Mỹ Lan xem chồng làm, thường phải nói:
Thôi đẹp rồi, người khác không ai làm đẹp đến thế đâu. Vì em đi, anh đừng phí công thêm làm gì, để vậy thôi.
Trương Bạch chỉ còn có nước nhìn nàng mà chua chát mỉm cười. Lúc đầu, chàng chỉ tạc các vòng đeo tai thường thôi. Thế nhưng mỗi loại ngọc có cái hồn riêng của nó, mỗi loại phải dùng một cách khác nhau. Dùng ngọc khắc vòng đeo tai, dẫu đẹp mấy cũng chẳng khác gì đào tiên cho khỉ hái, không đáng gì. Thành thử chàng vẫn lén – lúc đầu trong lòng bất an nên chàng phải dấu vợ – điêu khắc đôi ba vật đẹp tuyệt trần, để lộ chút thiên tài. Vừa làm xong là có người mua ngay, thật là mèo mù vớ cá rán. Mỹ Lan lại cầu khẩn chồng:
Anh ơi, em lo quá. Tên tuổi anh mỗi lúc lại nổi như cồn. Em lại đang có thai, anh nên giữ gìn một chút mới phải.
Có con ư? Thế thì mình là một tiểu gia đình rồi còn gì?
Chỉ trong khoảnh khắc, chàng thấy những gì Mỹ Lan lo lắng chẳng qua chỉ như người nước Kỷ lo trời sập, lập tức tiêu tan. Mỹ Lan nói một mình:
Mình sống như thế này thật hạnh phúc.
Những gì Mỹ Lan nói không sai. Chỉ một năm sau, danh của tiệm Bảo Hòa đã vững. Bảo Hòa là tên cửa hiệu của Trương Bạch. Những người giàu có trong vùng ai cũng lại mua ngọc khí của chàng, cả thành Cát An ai cũng biết. Ngay cả những người từ tỉnh đi ghé ngang qua thấy ngọc đẹp cũng mua.
Một hôm, có một người vào tiệm, nhìn quanh quất một hồi rồi hỏi chàng:
Có phải ông là Trương Bạch, bà con của Trương thượng thư ở phủ Khai Phong không?
Trương Bạch nằng nặc chối, nói từ trước tới nay chưa tới phủ Khai Phong bao giờ. Người đó có vẻ nghi, chăm chú nhìn Trương Bạch một hồi rồi nói:
Nghe giọng ông đúng là người phương Bắc, thế ông đã có vợ chưa nhỉ?
Có vợ hay chưa có vợ liên quan gì đến ông?
Mỹ Lan ở trong nhà ghé mắt qua khe cửa dò thám. Khi người nọ đi khỏi, nàng cho chồng hay gã là một viên thư lại trong phủ của thân phụ nàng. Chính đồ ngọc của Trương Bạch đã làm lộ thân thế chàng.
Hôm sau, người đó lại đến. Trương Bạch nói:
Tôi nói cho ông hay, tôi không hiểu ông định làm trò gì?
Tốt lắm. Để tôi nói cho ông hay về gã Trương Bạch này. Y phạm tội mưu sát, lại còn dụ dỗ tiểu thư con quan Thượng Thư, ăn cắp châu báu vàng bạc. Nếu như ông muốn cho tôi tin ông không phải là Trương Bạch thì mời bà nhà ra cho tôi xin một chén trà. Nếu như không phải là Trương tiểu thư thì thôi.
Tôi mở tiệm ở đây làm ăn đứng đắn, hẳn hòi. Nếu ông muốn làm phiền tôi, tôi sẽ đuổi ông ra khỏi cửa.
Người nọ cười khẩy một tiếng rồi đi ra. Vợ chồng Trương Bạch vội vàng thu nhặt những ngọc khí và đồ quí giá, thuê một cái thuyền gỗ, trời chưa sáng đã vội vàng ngược giòng sông chèo đi. Lúc đó đứa con mới được ba tháng.
Âu cũng là vận mệnh xui xẻo, hay trời làm ra thế nên đến Cống Huyện thì đứa nhỏ khởi bệnh, không thể không ngừng lại. Một tháng trời đi thuyền tiền bạc tiêu hết sạch. Trương Bạch đành phải lấy ra một món ngọc khí tuyệt đẹp bán cho một gã lái buôn họ Vương. Đó là một con chó, mắt nửa thức, nửa ngủ.
Tên lái buôn vừa thấy đã reo lên:
Ôi chà, đây là ngọc của tiệm Bảo Hòa đây mà ! Không đâu có thể làm được mà cũng không đâu bắt chước được.
Trương Bạch mừng thầm:
Vâng, tôi mua ở Bảo Hòa đấy.
Cống Huyện nằm ở chân một dãy núi cao. Lúc đó trời đang mùa đông. Trương Bạch càng thích cảnh trí và không khí trong lành. Hai vợ chồng bàn nhau ở lại đây. Khi đứa nhỏ khỏi bệnh, Trương Bạch lại bắt đầu tính chuyện mở tiệm. Cống Huyện là một thành phố lớn, nên ho đi cách đó chừng hai mươi dặm cho chắc ăn. Trương Bạch bàn với vợ bán đi một món ngọc khí làm vốn. Mỹ Lan hồ nghi hỏi:
Tại sao anh lại phải bán ngọc?
Có thế mới đủ tiền mua hàng.
Kỳ này anh nên nghe lời em, mở một tiệm bán đồ sứ.
Sao lại …
Chưa dứt câu, Trương Bạch đã hiểu ý vợ.
Thì tại anh không nghe lời em, suýt nữa mình bị bắt. Đồ ngọc với anh chẳng khác gì tính mệnh, bộ anh không nghĩ đến vợ con hay sao? Đợi bao giờ êm êm hãy nghĩ tới việc khắc ngọc.
Bất đắc dĩ, Trương Bạch phải mở tiệm bán đồ sứ, bán những tượng đất nung. Chàng nặn vài trăm tượng Phật. Mỗi đầu tháng, khi thấy những lái ngọc đi từ Quảng Châu qua, lòng chàng lại nao nao nghĩ đến điêu khắc. Khi đi ngang qua các tiệm bán ngọc, nhìn những món đồ xấu xí bày bán, máu nóng lại nổi lên bừng bừng. Về nhà nhìn thấy những tượng đất đang phơi, chàng lấy ngón tay di nát cả.
Hừ, đất bùn. Ta có thể khắc ngọc mà sao phải đi nặn đất bùn.
Nhìn thấy chồng lên cơn giận dữ, Mỹ Lan sợ lắm vội khuyên:
Thế anh không sợ chết sao?
Một hôm, gã lái buôn họ Vương gặp Trương Bạch, mời chàng vào nhà uống nước, mong mua thêm được vài món ngọc. Trương Bạch hỏi:
Ông đi đâu về thế?
Tôi đi Cát An về đây.
Gã mở bọc ra, nói:
Này ông xem, đồ của tiệm Bảo Hòa bây giờ thế này đây.
Trương Bạch lặng thinh không trả lời. Khi gã Vương lôi ra một con khỉ bằng mã não, chàng la lên:
Đồ giả rồi.
Gã Vương thở dài:
Ông nói không sai. Mặt con khỉ chẳng có thần khí. Nghe ông nói, ông có vẻ rành ngọc lắm nhỉ.
Trương Bạch lạnh nhạt đáp:
Thì đương nhiên tôi rành.
A, thì ra thế. Hôm trước ông có bán cho tôi một con chó, chẳng dấu gì ông, tôi bán lời gấp trăm lần. Ông còn món nào khác không?
Để tôi cho ông xem con khỉ bằng mã não thứ thiệt của tiệm Bảo Hòa.
Trương Bạch dẫn gã Vương về nhà, cho y xem con khỉ mã não chàng khắc hồi ở Cát An. Gã lại năn nỉ hết lời để chàng bán lại cho món ngọc đó. Hôm sau, họ Vương đến Nam Xương khoe ầm lên với các bạn ngọc khác là y mua lại được từ tay một gã bán đồ sứ, rồi chép miệng:
Người như thế mà có những món ngọc đẹp, kể cũng lạ.
Độ sáu tháng sau, ba người nha dịch đến tiệm, đem theo công sự bắt hai vợ chồng giải về kinh đô. Tên bí thư của Trương thượng thư cũng đi theo. Trương Bạch nói:
Để chúng tôi lấy ít đồ mang theo.
Mỹ Lan cũng tiếp lời chồng:
Chúng tôi đem ít đồ cho cháu bé.
Rồi dọa thêm:
Các ngươi đừng quên rằng nó là cháu ngoại quan thượng thư, đi đường nếu nó bệnh, các ngươi phải chịu trách nhiệm.
Những tên nha dịch vốn đã được lệnh quan thượng thư đi đường phải lo cho chu đáo nên đâu dám từ chối. Trương Bạch và vợ ra đằng sau, bọn công sai chờ đằng trước. Quả thực là một cuộc biệt ly đau lòng. Trương Bạch hôn vợ, rồi hôn con, theo cửa sổ thoát ra ngoài. Mỹ Lan nói vói theo:
Đời em lúc nào cũng yêu anh, nhưng anh đừng khắc ngọc nữa nhé.
Hai người nhìn nhau một lần cuối. Khi Trương Bạch đã đi khuất, Mỹ Lan mới quay vào. Nàng cố gắng trấn tĩnh, một mặt dọn đồ, một mặt giả vờ nói chuyện với chồng. Nàng ra ngoài giao cho một tên nha dịch bế con rồi quay vào trong. Đến khi bọn công sai khởi nghi, xông vào tìm thì Trương Bạch đâu còn nữa.
Khi Mỹ Lan về đến nhà, mẹ nàng đã mất, cha đã già đi nhiều. Nàng quì xuống xin lỗi cha, nhưng quan thượng thư mặt lạnh như tiền. Chỉ đến khi trông thấy đứa cháu ngoại, ông mới dịu đi một chút. Cũng may, Trương Bạch đã trốn được, chứ nếu như bắt được y, ông cũng không biết xử sao cho phải. Thế nhưng ông vẫn không thể nào tha thứ cho Trương Bạch được vì y đã làm hỏng đời con ông, làm gia đình ông tan nát.
Qua mấy năm, không ai nghe tin tức gì của Trương Bạch cả. Một hôm quan tri châu họ Dương ở Quảng Châu lên kinh đô. Trương thượng thư thiết yến tiếp Dương tri châu tẩy trần. Trong khi hai người đàm đạo, Dương tri châu cho hay ông có mang theo một pho tượng ngọc cực quí giá, không kém gì pho tượng Quan Âm mà Trương thượng thư dâng lên hoàng hậu ngày nào. Dáng cũng tương tự, mà nét khắc cũng không sai bao nhiêu. Ông định dâng lên hoàng hậu để cùng với pho tượng cũ thành một đôi.
Bàn tiệc ai cũng hoài nghi vì không ai tin có thể có người khắc được pho tượng đẹp như thế. Dương tri châu cao hứng:
Thế thì để tôi đem ra mời quí vị coi.
Khi bữa ăn xong, bàn đã dọn dẹp, Dương tri châu sai lính hầu mang ra một hộp gỗ bóng như mun, mở đem pho tượng Quan Âm để trên bàn. Cả phòng bỗng nhiên không một tiếng động. Chính là pho tượng Quan Thế Âm đại từ, đại bi với nét buồn mênh mang.
Một tì nữ vội vàng vào báo cho Mỹ Lan hay. Khi Mỹ Lan từ vườn sau lên thoạt nhìn pho tượng để trên bàn, mặt nàng bỗng xanh như tàu lá. Nàng lẩm bẩm:
Chàng lại khắc ngọc nữa rồi. Chính là của chàng.
Cố gắng trấn tĩnh, Mỹ Lan lắng nghe xem Trương Bạch còn sống hay đã chết. Một người khách hỏi:
Chẳng hay người nghệ sĩ ấy còn sống chăng?
Dương tri châu đáp:
Con người ấy kể ra thật là lạ lùng. Y không phải là một thợ ngọc thường. Tôi biết được y là do cô cháu gái kể lại. Khi cháu tôi đi lấy chồng có mượn của nhà tôi một cái vòng đeo tay cổ. Vòng này nguyên có một đôi, trên có khắc hai con rồng quấn vào nhau, cực kỳ tinh mỹ. Cô ta sơ ý chẳng may đánh vỡ, sợ lắm vì không thể nào mua đâu mà đền, mà cũng chẳng có ai khắc đẹp như vậy. Cô ta đi lùng khắp các tiệm bán ngọc, nhưng đâu đâu cũng nói là bây giờ không ai có thể làm được như thế. Không biết sao hơn, cô nàng mới dán giấy khắp phố để tìm người.
Không bao lâu, có một người áo quần lam lũ đến nhận làm. Khi đem chiếc vòng ra cho y xem, y bảo y có thể làm được và quả nhiên y khắc một chiếc vòng y hệt chiếc kia. Đó là lần đầu tôi nghe nói đến y.
Sau đó, khi tôi nghe nói hoàng hậu đang đi tìm người nào có thể khắc được một pho tượng giống như pho tượng Quan Âm bà đang có để thành một đôi, tôi nghĩ ngay đến người này. Tôi mua được ở Quảng Châu một khối ngọc tuyệt đẹp nên mời gã ta lại. Khi gã đến, có vẻ như sợ hãi lắm chẳng khác gì một tên ăn trộm bị bắt. Tôi phải mất biết bao công phu mới nói cho y hay là muốn khắc một pho tượng Quan Âm. Khi tôi nói về đôi vòng tai có thể xoay được dường như gã có điều úy kị.
Gã đi chầm chậm vòng quanh khối ngọc, xem kỹ mọi góc độ một lần. Tôi hỏi:
Ông thấy sao? Khối ngọc này có tốt không?
Anh ta ngẩng đầu nhìn tôi, giọng lộ chút tự kiêu:
Khối ngọc này dùng được, khắc tốt lắm. Đã bao nhiêu năm nay, tôi đi kiếm một khối ngọc trắng, nay đã thấy đây. Đại nhân, tôi sẽ khắc một pho tượng, nhưng không muốn ai làm rộn – tôi muốn làm gì thì làm, đừng ai quấy rầy tôi.
Tôi dọn cho anh ta một phòng, trong phòng chỉ giản dị có một cái giường và một cái bàn cùng các vật dụng cần thiết. Người này lạ thật, chẳng nói chuyện với ai, còn có vẻ thô lỗ với những người đem đồ vào cho y.
Khi y bắt đầu vào việc, tưởng chừng như có thần linh nhập vào người. Sau năm tháng làm việc, y cũng không cho tôi ngó tới một lần. Lại thêm ba tháng nữa, y mới đem thành phẩm ra ngoài. Tôi vừa nhìn thấy, chân tay bủn rủn đứng không vững, chẳng khác gì quí vị mới rồi. Y nhìn tác phẩm của mình, mặt lộ một vẻ vô cùng kỳ bí. Y nói:
Đại nhân, tôi muôn vàn cảm tạ ngài. Pho tượng này chính là lịch sử đời tôi.
Tôi chưa kịp đáp lời, gã đã đi mất dạng. Tôi cho người đi tìm nhưng chẳng thấy anh ta đâu, biến mất vô hình vô ảnh.
Bỗng một tiếng đàn bà rú lên thảm thiết từ trong nhà đưa ra, nghe rợn người. Tiếng kêu như xé ruột gan, ai nấy đều chết lặng. Lão thượng thư lật đật chạy vào, Mỹ Lan đã nằm sóng sượt dưới đất. Một người bạn thân cận với gia đình thượng thư, thấy Dương tri châu nghi hoặc, ghé tai nói nhỏ:
Tiếng kêu đó chính là của tiểu thư Mỹ Lan, con gái quan thượng thư. Tôi có linh cảm rằng, người nghệ sĩ này chẳng ai xa, chính là chồng của tiểu thư tên Trương Bạch.
Khi Mỹ Lan tỉnh lại, nàng chạy ra như mê như tỉnh, vuốt ve pho tượng. Nàng ôm lấy pho tượng vào lòng, tưởng như ôm Trương Bạch trong tay. Ai ai cũng thấy, khuôn mặt của pho tượng và Mỹ Lan y hệt nhau, chính là một người.
Khi Dương tri châu nghe xong câu chuyện, ông nói với Mỹ Lan:
Này cháu, cháu giữ lấy pho tượng này. Ta kiếm một lễ phẩm khác dâng lên hoàng hậu cũng được. Pho tượng này sẽ làm cháu nguôi ngoai phần nào. Cháu chưa gặp lại chồng, có pho tượng này cũng đỡ nhớ.
Từ ngày đó, mỗi ngày Mỹ Lan thêm tiều tụy, như người nhiễm phải một căn bệnh lạ lùng. Khi ấy, Trương thượng thư chỉ mong tìm ra Trương Bạch, bao nhiêu chuyện cũ bỏ qua hết. Mùa xuân năm sau, Dương tri châu cho người đến báo, ông đã tìm đủ mọi cách mà không sao tìm ra được tung tích của chồng Mỹ Lan.
Hai năm qua, một cơn ôn dịch lan đến toàn thành. Đứa con của Trương Bạch cũng nhiễm bệnh chết. Mỹ Lan cắt tóc, vào một am ni cô xuất gia, chỉ mang theo duy nhất pho tượng Quan Âm. Cứ như bà ni cô trụ trì, nàng sống một mình một thế giới riêng, không cho một ai vào phòng, kể cả chính bà.
Bà ni cô cũng kể cho quan thượng thư nghe, đêm đêm nàng hay ngồi viết những lá thư dài đem đốt trước pho tượng. Nàng không tiếp xúc với ai, nhưng tựa hồ rất sung sướng mà cũng chẳng làm hại ai.
Mỹ Lan tu ở đó chừng hai mươi năm thì chết. Pho tượng Quan Âm bằng xương bằng thịt tuy chết đi nhưng pho tượng ngọc vẫn còn lại với nhân gian.
Vượt qua được ba chặng sông Trường Giang lên mạn ngược quả thật kinh tâm động phách, nguy hiểm vạn phần. Dẫu sao cuối cùng tôi cũng đến được phủ đệ của viên tri phủ từ quan về ở ẩn nơi đây. Ông này là người nổi danh trong giới sưu tầm cổ ngoạn, bút thiếp và tranh vẽ. Có người bảo rằng khi còn tại quyền, ông ta lắm phen lợi dụng thế lực để cưỡng đoạt nhiều món đồ cổ quí giá. Mỗi khi ông ta chủ tâm lấy món gì, dù đồng khí hay tự họa, nếu dùng tiền mua không xong thì phải đủ mọi cách có bằng được mới thôi. Người ta kể rằng nhà kia không chịu bán một món đồ đồng đời Thương, ông ta đã làm cho họ phải nhà tan, người chết. Những điều ấy thật khó mà kiểm chứng, hoặc có khi vì ghét bỏ mà người ta bịa đặt không chừng, nhưng tính thích đồ cổ như chính mạng mình của ông ta thì ai cũng biết. Vả lại, trong bộ sưu tập của ông ta có những món trên đời hiếm thấy.
Viên hưu quan tiếp tôi tại căn phòng phía Tây. Đi qua ba dẫy nhà mới đến khách sảnh. Phòng khách của một người chuyên về cổ ngoạn mà sao chẳng có món gì đặc biệt ngoài những bàn ghế bằng gỗ gụ, trên mặt lót da báo. Nhưng toàn cục xem ra đầy vẻ phong nhã, giản phác chứng tỏ chủ nhà là người có khí tượng cao nhân. Tôi vừa tiếp chuyện, vừa quan sát chiếc bình màu huyết dụ, cắm một cành mai in lên nền núi cao ngoài song cửa. Sát bên phòng khách là một vườn hoa.
Viên tri phủ nói năng thật từ hòa, dễ mến. Có thể vì tuổi già nên ông không còn sắc mắc nhưng cứ như con người trước mặt thì thật khó mà có thể bảo ông ta tàn nhẫn như lời đồn. Ông ta tiếp tôi chẳng khác gì một người bạn cũ đến thăm. Còn tôi thì hơi nóng ruột vì những gì tôi dặn người giới thiệu tôi chuyển lời sao mãi không thấy nhắc tới, hay vị hưu quan vì tuổi già nên đã lẫn rồi chăng?
Tôi quả thực kính trọng con người này, dám về đây tự cất một căn nhà để tiêu dao ngày tháng. Vì thế tôi không thể đường đột mà chỉ lịch sự khen qua về những đồ cổ quí giá ông đã sưu tầm được mà thôi. Ông lão mỉm cười:
- Hôm nay thì người ta bảo là của tôi, nhưng một trăm năm sau thì lại về tay người khác rồi. Ông xem, có nhà nào mà giữ được một món đồ đến hơn trăm năm đâu. Đồ cổ cũng có số mệnh của nó, nếu nó biết, hẳn nó cũng cười chúng ta đấy.
Nói đến đây, dường như thú vị, ông già lấy ra một cái tẩu thuốc ngậm trên môi.
- Thật thế ư?
- Đương nhiên là thế.
Tôi e dè hỏi lại:
- Ngài nói như thế là nghĩa làm sao?
- Bất cứ món nào, hễ là đồ cổ đều có nhân cách riêng, sinh mệnh riêng.
- Tiên sinh nói vậy chẳng lẽ nó cũng có linh hồn ư?
Ông già hỏi ngược lại:
- Thế theo ông thì linh hồn là cái gì? Linh hồn chẳng qua là nói về cái đời sống, mà hễ có đời sống thì hẳn có linh hồn. Ví thử như một nghệ phẩm, người nghệ sĩ đem hết sức tưởng tượng và sinh lực của mình dồn vào đó, có khác gì người mẹ đem khí huyết của mình nuôi cái bào thai. Một khi sinh lực người nghệ sĩ đem vào tác phẩm, thì tác phẩm đó ắt có sinh mệnh, còn hoài nghi gì nữa? Có khi vì sinh mệnh của tác phẩm mà người nghệ sĩ phải mất mạng như trường hợp pho triển ngọc Quan Âm của tôi.
Tôi vốn dĩ chỉ muốn đến xem một bức viết danh quí, trước nay chẳng hề nghe nói đến triển ngọc Quan Âm, mà nói đúng ra chẳng mấy ai biết. Tôi chỉ vô tình hỏi không ngờ lại được nghe một câu chuyện lạ lùng. Khi ông ta nói về lịch sử của pho tượng này, tôi thật cũng chưa biết ông ta nói gì, nhưng cốt ý đến xem chữ nên tìm cách quay trở lại đề tài. Tôi chỉ tay lên một bức thủ cảo:
- Đương nhiên là trong tác phẩm phải thể hiện được phần nào con người của tác giả, và đó chính là một phần của con người lưu cho hậu thế rồi còn gì.
- Ông nói không sai, cái gì tốt đẹp cũng còn lại cái sinh mệnh cũng như nghệ gia có con có cháu vậy.
Viên tri phủ khi nói tới đây xem chừng tin vào quan điểm của mình lắm.
- Nếu như trong khi sáng tạo tác phẩm, nghệ gia phải hi sinh tính mạng của mình thì đó là trường hợp pho tượng ngọc của tiên sinh chăng?
- Pho tượng Quan Âm thì tình trạng lại đặc biệt, tác giả không chỉ vì tác phẩm mà chết, nhưng cái chết của ông ta thật cũng xứng đáng – vì hoàn thành được một tác phẩm như thế rồi nằm xuống thì cũng không uổng một đời.
Ngưng lại một chút, ông ta nói tiếp:
Nếu ông xem pho tượng này thì sẽ cảm thấy như vì tác phẩm mà ông ta sinh ra, rồi cũng vì tác phẩm mà phải hi sinh tính mệnh. Nếu không như thế, thật không thể nào hoàn thành được tác phẩm này.
Nếu thế ắt hẳn phải là một vật quí giá phi thường, chẳng hay chúng tôi có duyên được xem chăng?
Tôi phải khẩn khoản đến nửa ngày, ông lão mới bằng lòng cho tôi xem. Những đồ trân quí, ông ta để trên lầu hai, còn riêng pho tượng ngọc thì để tận lầu ba.
Tác giả của nó là ai vậy?
Tên ông ta là Trương Bạch, trên đời chẳng ai biết đến đâu. Tôi nghe được câu chuyện về đời ông ta từ nữ trụ trì ở am Kê Minh, và tôi phải hiến cho ni cô ở am này một tài sản lớn - cho mụ trụ trì già giảo hoạt - bà ta mới chịu giao cho tôi pho triển ngọc Quan Âm. Khi đó, người chủ của pho tượng này qua đời rồi, nó vào tay tôi thật đáng hơn ở trong am nhiều.
Pho tượng nhỏ được khắc bằng một khối ngọc cực kỳ trong trắng, đặt trên một cái bệ bằng ngọc xanh trong một cái hộp pha lê ngay giữa lầu ba, chung quanh có song sắt đúc hoa nặng nề, không ai lay nổi.
Ông thử đi vòng quanh mà xem, mắt pho tượng lúc nào cũng nhìn theo ông đấy.
Nghe ông ta nói, pho tượng này quả thực lạ thường. Tôi đi quanh một vòng, mắt pho tượng đích thực lúc nào cũng theo dõi tôi không ngoa. Thế nhưng hình dáng Quan Âm thật buồn, tưởng như diễn tả đúng vào lúc đang toan bay lên, một tay giơ cao, đầu hơi ngửng về phía sau, một tay phải đưa ra phía trước, linh động chẳng khác gì một nữ nhân hòa ái trong lúc thương tâm, tựa như Quan Âm bồ tát sắp bay lên trời còn cố giơ tay ban phúc cho chúng sinh. Thế nhưng nhìn vào khuôn mặt thì không cảm thấy hình ảnh giáng phúc. Một pho tượng chỉ cao mười tám phân, mà người điêu khắc nên nó có thể làm cho kẻ xem khó có thể quên vì ngay cả y phục cũng đặc biệt sáng tạo.
Tại sao người ni cô lại có được pho tượng này?
Ông nhìn kỹ tư thế của điêu tượng này, trong đôi mắt chứa đầy yêu thương, sợ hãi, thống khổ.
Nói tới đây ông ta ngưng lại một chút, rồi thốt nhiên tiếp:
Thôi mình xuống dưới lầu, tôi sẽ kể cho ông nghe từ đầu đến cuối.
*
* *
Người ni cô ấy tên là Mỹ Lan, khi sắp chết mới kể câu chuyện này. Cũng có thể bà ni cô trụ trì thuật lại cho tôi không hoàn toàn đúng, có thêm thắt cho câu chuyện thêm sinh động nhưng viên tri phủ ngoài việc đổi một số tên đất, xác quyết với tôi chuyện này không sai. Cũng theo như bà trụ trì, người ni cô này trầm mặc, ít nói, khi còn sống chẳng truyện trò với ai bao giờ.
Vào khoảng hơn một trăm năm trước, Mỹ Lan khi ấy là một thiếu nữ đang tuổi thanh xuân, sống trong trạch đệ quan trấn thành Khai Phong. Nàng vốn là con gái duy nhất của Trương thượng thư, xinh đẹp bội phần. Cha cô là người cực kỳ nghiêm chính, nhưng với con lại cưng chiều vô cùng. Cũng như bao nhiêu quan to thời đó, trong gia phủ có rất nhiều họ hàng thân thích ở, người nào biết chữ thì làm việc quan, người nào dốt nát thì làm việc nhà.
Một hôm, có một đứa cháu họ xa đến Trương phủ. Tên anh ta là Trương Bạch, rất thông minh, hoạt bát đầy vẻ tinh anh. Tuy mới mười bảy tuổi nhưng thân hình cao lớn, ngón tay búp măng dài, không có vẻ nào một cậu bé nhà quê. Cả phủ ai cũng mến anh ta nhưng ngặt vì không biết chữ nên phu nhân giao cho Trương Bạch việc tiếp khách.
Anh ta hơn Mỹ Lan một tuổi, cả hai đều còn trẻ con, thường hay chơi đùa với nhau. Trương Bạch hay kể chuyện đồng quê cho Mỹ Lan nghe và cô nàng thích lắm. Qua độ hơn mười ngày, mọi người đã bớt vồn vã, phần vì chàng ta tính tình lạ lùng thích tìm nơi cô tịch, phần khác lơ đễnh hay quên việc, nên thường bị mắng. Vì thế phu nhân cho anh ta ra coi vườn và xem chừng Trương Bạch thích việc này hơn.
Trương Bạch vốn là kẻ trời sinh thích sáng tạo, không thích theo lối người thường học hành. Được sống chung với chim chóc, cỏ hoa có vẻ thích thú, vừa đi vừa gọi, tưởng như một vì chúa tể quần sinh. Nếu không ai để ý đến anh chàng thì anh ta lại làm được nhiều điều lạ. Không ai dạy mà anh ta biết vẽ. Khi rảnh rỗi anh ta làm được những chiếc đèn lồng tuyệt đẹp, hay lấy đất sét nặn chim nặn thú trông như sống thực.
Đến năm mười tám tuổi, xem ra anh ta vẫn chẳng có gì gọi là sở trường. Thế nhưng vì đâu mà lôi cuốn Mỹ Lan, nàng cũng không biết nữa. Trương Bạch thân hình cao ráo, thanh tú, ngoài cha cô ai ai cũng mến gã. Hai anh em họ ngày càng thân nhau, nhưng một điều rõ ràng là hai người cùng họ làm sao có thể lấy nhau.
Một hôm, Trương Bạch nói với phu nhân anh ta muốn đi kiếm nghề để học. Anh ta đã kiếm ra một cửa hiệu bán ngọc khí, và đã nói với người ta để xin học việc. Phu nhân thấy vậy cũng ưng vì càng ngày anh ta và Mỹ Lan xem càng thân thiết quả không hay. Tuy nhiên Trương Bạch vẫn sống trong phủ, tối tối lại về và càng có nhiều chuyện để kể cho Mỹ Lan nghe.
Phu nhân mới nói với con rằng:
Mỹ Lan, con và biểu huynh con đều đã lớn khôn, tuy là anh em họ, nhưng hai người không được gặp nhau nữa.
Nghe mẹ dặn, Mỹ Lan càng nghĩ càng buồn. Trước đây nàng chưa bao giờ nghĩ rằng mình đã yêu Trương Bạch. Tối hôm đó, nàng vào hoa viên gặp anh ta. Ngồi dưới ánh trăng, trên một phiến đá, Mỹ Lan nói cho Trương Bạch nghe lời mẹ.
Này anh Bạch, mẹ em dặn là em không được gặp anh nữa.
Nói đến đây, hai má nàng ửng hồng.
Đúng rồi, chúng ta đều đã lớn.
Cô gái cúi đầu làm như tự hỏi mình:
Thế ư, vậy là thế nào?
Trương Bạch choàng một tay qua lưng Mỹ Lan nói:
Thế có nghĩa là em càng ngày càng làm cho anh say mê, càng ngày càng làm cho anh muốn gặp. Nếu em ở bên cạnh anh, anh thấy vui sướng, nếu em không ở bên anh, anh thấy tịch mịch thê lương.
Mỹ Lan thở dài hỏi lại:
Thế bây giờ anh vui lắm ư?
Giọng Trương Bạch trở nên trìu mến:
Phải rồi. Có em ở bên cạnh, tâm hồn anh xao xuyến khác thường. Mỹ Lan, em là của anh mà anh cũng là của em.
Chắc anh biết rồi, em không thể nào lấy anh được. Chẳng bao lâu cha mẹ em sẽ gả chồng cho em.
Đừng em, đừng nói chuyện ấy.
Thế nhưng anh cũng nên biết như thế chứ.
Anh chỉ biết cái này thôi.
Nói đến đây Trương Bạch kéo Mỹ Lan vào lòng:
Từ thuở khai thiên lập địa, em vì anh mà sinh ra, anh cũng vì em mà có mặt trên đời, anh không bao giờ để em đi. Anh yêu em không biết bao nhiêu mà kể.
Mỹ Lan vùng ra khỏi tay Trương Bạch, đi một mạch về phòng.
Tình yêu chớm nở trong tuổi thanh xuân thật bồi hồi, mà khi cả hai bên đều hiểu rằng họ ở trong một hoàn cảnh ngang trái thì lại càng thấy thấm thía mùi vị vừa ngọt ngào, vừa đắng cay. Đêm hôm ấy, Mỹ Lan trằn trọc, khi thì nghĩ đến lời mẹ dặn, khi thì nhớ lại những gì Trương Bạch nói với mình lúc ban chiều, như chỉ một đêm mà nàng trở nên khác hẳn. Hai người càng muốn thoát ra khỏi sợi dây ái tình, càng thấy mình bị trói chặt. Cả hai cùng cố tránh mặt nhau. Ba ngày sau, Mỹ Lan e e ấp ấp đến kiếm Trương Bạch. Vì hai người chỉ lén gặp nhau, lửa tình càng thêm mãnh liệt. Hôm ấy, ái tình của tuổi xuân, êm đềm của nuối tiếc, sâu xa của thề nguyền, ngọt ngào hơn, mà cũng đắng cay hơn. Hai người cùng biết rằng họ không thể nào cưỡng lại được quyền của đấng sinh thành. Nhưng họ không biết phải làm gì, chỉ biết yêu.
Cứ như phong tục thời ấy, cha mẹ Mỹ Lan ngấm nghé một thư sinh cho con nhưng nàng cực lực từ chối. Có lần nàng còn nói nàng không muốn lấy chồng khiến cho mẹ nàng giật mình. Nhưng Mỹ Lan tuổi cũng còn nhỏ, nên hai ông bà cũng có ý muốn để nàng ở nhà thêm vài năm.
Trong thời gian ấy, Trương Bạch vẫn tiếp tục đi học nghề. Trong nghề khắc tượng, anh ta cảm thấy mình có thiên tư, chẳng khác gì một người được sinh ra để làm việc này, nên chẳng bao lâu đã trở thành một người thợ xuất sắc. Anh ta mê điêu khắc lạ lùng, mỗi khi làm việc quên ăn quên ngủ, ngay cả những chỗ tỉ mỉ nhất cũng thập toàn thập mỹ, khiến cho ông thầy dạy cũng phải kinh ngạc. Những nhà phú quí càng ngày càng đến đặt mua nhiều hơn.
Một hôm, nhân lễ thọ của hoàng hậu, cha Mỹ Lan quyết định dâng một lễ vật tuyệt hảo, nên tìm được một khối ngọc lớn, loại thượng đẳng. Theo ý của phu nhân, ông tự mình đem đến nơi Trương Bạch làm việc nói rõ nguyên nhân. Khi xem những tác phẩm của anh ta, ông càng thán phục.
Này cháu, đây là một lễ vật dâng lên hoàng hậu, nếu cháu làm khéo, ta sẽ thưởng một món tiền lớn.
Trương Bạch xem kỹ khối ngọc, lấy tay vuốt ve tảng đá chưa từng đẽo gọt, trong lòng vui sướng vô cùng. Chàng nói rằng đã lâu vẫn mong có cơ hội tạc một pho tượng Quan Âm, và tin rằng sẽ hoàn thành một nghệ phẩm cổ kim chưa từng có.
Trong khi điêu khắc, Trương Bạch không cho ai xem và khi xong, quả nhiên pho tượng Quan Âm là một tác phẩm tuyệt hảo, đúng qui củ từ xưa truyền lại. Từ nghi thái, phong tư, chỗ nào cũng hoàn toàn. Hơn nữa chàng còn làm được một điều chưa ai có là ở hai tai pho tượng khắc hai vòng đeo chuyển động được. Trái tai cũng thật tinh xảo, chỗ dày mỏng, chỗ lên xuống chẳng khác gì người thật. Thêm một nét, khuôn mặt pho tượng y hệt Mỹ Lan.
Viên thượng thư vui mừng không sao kể xiết. Trong bao nhiêu bảo vật của hoàng cung, không gì có thể sánh với pho tượng này. Ông bảo:
Khuôn mặt cháu khắc sao giống hệt Mỹ Lan.
Trương Bạch đắc ý đáp:
Dạ đúng vậy. Chính nàng là cảm hứng cho cháu.
Ông quan thưởng cho Trương Bạch một món tiền lớn, rồi tiếp:
Thôi, từ nay sự thành danh của cháu không còn là vấn đề nữa. Ta đã cho cháu cơ hội này, vậy phải biết ơn ta nhé.
Trương Bạch thế là đã nổi tiếng, nhưng điều tâm nguyện của chàng lại chưa thành. Thành danh mà làm gì nếu không có được Mỹ Lan. Chàng biết rằng nguyện vọng ấy không sao thành được, nên làm việc không còn hứng thú, nhiều mối hàng lớn cũng chẳng buồn nhận. Chẳng biết sao hơn, ông chủ phường khắc chỉ còn có nước thở dài.
Đến nay, Mỹ Lan đã hai mươi mốt tuổi, đáng lẽ phải là tuổi vui tươi của một thiếu nữ chưa chồng. Đúng lúc ấy, có người đã mai mối nàng cho một gia đình rất thế lực, và nàng không còn cách gì lần khân được nữa. Chẳng bao lâu hai bên đã cử hành lễ đính hôn, troa đổi lễ vật cực kỳ long trọng.
Mỹ Lan và Trương Bạch thất vọng vô cùng, tưởng muốn phát điên nên bàn nhau trốn đi. Mỹ Lan tin rằng tài nghệ của Trương Bạch chắc đủ nuôi thân nên chỉ đem theo một ít tư trang, tính sẽ đi đến một nơi thật xa sinh sống. Hai người định một đêm kia sẽ theo vườn hoa phía sau mà đi. Nào ngờ đêm ấy, một lão bộc nhìn thấy hai người ở trong hoa viên nên đâm nghi, vì chuyện hai người thì cả nhà ai ai cũng rõ. Ông lão không muốn để cho phủ quan thượng thư mang tiếng xấu nên ra giữ chặt Mỹ Lan lại. Không cách gì hơn, Trương Bạch xô lão ra. Tuy lảo đão, lão nhất định không buông, chàng bèn đấm cho một quả. Ông ta ngã văng vào tòa giả sơn, đầu đập vào một cạnh đá, gục xuống tắt thở. Hai người thấy ông ta chết, hoảng sợ vội chạy ngay.
Sáng hôm sau, trong nhà phát hiện hai người tư bôn, ông lão bộc táng mệnh. Quan thượng thư giận đến cực điểm:
Ta nhất định sẽ cho tìm khắp thiên hạ đem chúng nó về giải quan trị tội.
Khi ra khỏi kinh đô, đôi nhân tình không dám ngừng bước, cứ đi thẳng nhưng tránh những thành thị lớn. Vượt sông Trường giang, vào đến Giang Nam. Trương Bạch nói với Mỹ Lan:
Anh nghe nói Giang Tây có nhiều ngọc đẹp.
Mỹ Lan ngần ngừ hỏi lại:
Anh vẫn còn định khắc ngọc sao? Nét khắc của anh ai cũng nhận được, chỉ nhìn qua là biết thôi.
Trương Bạch nói:
Thế mình chẳng định khắc ngọc kiếm sống là gì?
Đó là chuyện tính khi lão Đái không chết. Bây giờ ai cũng cho là mình mưu sát lão. Anh làm việc khác không được sao? Như làm đèn lồng hay nặn đất sét anh vẫn làm thuở nào?
Chẳng lẽ anh lại làm những việc ấy. Anh đã nổi danh khắc ngọc rồi mà!
Thì chính là phiền ở chỗ đó.
Anh nghĩ rằng mình không nên lo quá. Giang Tây cách kinh đô cả hơn nghìn dặm, chắc chẳng ai biết đến mình đâu.
Hay anh đổi cách đi, đừng khắc cái gì thật đẹp, chỉ cốt sao bán được là đủ rồi.
Trương Bạch cắn môi, không nói một lời. Chẳng lẽ chàng cũng như bao nhiêu người thợ ngọc tầm thường khác, ẩn tính mai danh, sống thừa sống nhục? Chính mình hủy diệt nghệ thuật của mình chăng? Hay để cho nghệ thuật hủy diệt mình? Quả thực chàng chưa hề nghĩ đến tình cảnh này.
Thế nhưng trực giác của đàn bà không sai. Mỹ Lan e rằng điêu khắc những vật tầm thường không hợp ý chồng. Sau khi qua khỏi Trường Giang, một sức mạnh vô bờ lôi cuốn Trương Bạch khiến hai vợ chồng theo đường cái quan đi Giang Tây. Từ Giang Tây họ đi qua những ngọn núi hùng vĩ tỉnh Quảng Đông, qua các đồng bằng. Hai người không ngừng ở Nam Xương mà đi thẳng tới Cát An. Khi tới Cát An, người vợ lại năn nỉ xin chồng cải trang. Xứ Giang Tây nổi tiếng về đất sét, có những đồ sứ tuyệt đẹp. Nhưng làm đồ sứ Trương Bạch cũng không hài lòng, chàng nói:
Nếu có làm đồ sứ, người ta cũng nhận ra tài của anh. Ở đây có làm đồ ngọc chắc cũng không sao đâu.
Lời đề nghị đó ngược với linh tính của đàn bà. Mỹ Lan chẳng biết sao hơn, đành chiều ý chồng. Nàng nói:
Anh ơi, vì em trăm lần ngàn lần anh đừng nổi danh nữa nhé. Hai đứa mình hiện đã khổ sở đến mức này, nếu như anh lại nổi danh thì mình chỉ còn có chết mà thôi.
Mỹ Lan sợ mà nói như thế, nhưng nàng cũng hiểu rằng, chồng nàng nếu không hoàn thành những vật thập toàn thập mỹ, thì đâu chịu cam lòng. Chàng là người yêu thích vẻ đẹp, có trình độ nghệ thuật cao siêu, lại tự hào về tác phẩm của mình, thêm lòng đam mê ngọc khí. Tránh sai dịch bắt bớ hay không là ở chàng. Thật là đầy đắng cay trong cái bi kịch này.
Trương Bạch lấy châu báu của vợ bán đi, mua về đủ các loại ngọc khác nhau mở một tiệm nhỏ. Mỹ Lan xem chồng làm, thường phải nói:
Thôi đẹp rồi, người khác không ai làm đẹp đến thế đâu. Vì em đi, anh đừng phí công thêm làm gì, để vậy thôi.
Trương Bạch chỉ còn có nước nhìn nàng mà chua chát mỉm cười. Lúc đầu, chàng chỉ tạc các vòng đeo tai thường thôi. Thế nhưng mỗi loại ngọc có cái hồn riêng của nó, mỗi loại phải dùng một cách khác nhau. Dùng ngọc khắc vòng đeo tai, dẫu đẹp mấy cũng chẳng khác gì đào tiên cho khỉ hái, không đáng gì. Thành thử chàng vẫn lén – lúc đầu trong lòng bất an nên chàng phải dấu vợ – điêu khắc đôi ba vật đẹp tuyệt trần, để lộ chút thiên tài. Vừa làm xong là có người mua ngay, thật là mèo mù vớ cá rán. Mỹ Lan lại cầu khẩn chồng:
Anh ơi, em lo quá. Tên tuổi anh mỗi lúc lại nổi như cồn. Em lại đang có thai, anh nên giữ gìn một chút mới phải.
Có con ư? Thế thì mình là một tiểu gia đình rồi còn gì?
Chỉ trong khoảnh khắc, chàng thấy những gì Mỹ Lan lo lắng chẳng qua chỉ như người nước Kỷ lo trời sập, lập tức tiêu tan. Mỹ Lan nói một mình:
Mình sống như thế này thật hạnh phúc.
Những gì Mỹ Lan nói không sai. Chỉ một năm sau, danh của tiệm Bảo Hòa đã vững. Bảo Hòa là tên cửa hiệu của Trương Bạch. Những người giàu có trong vùng ai cũng lại mua ngọc khí của chàng, cả thành Cát An ai cũng biết. Ngay cả những người từ tỉnh đi ghé ngang qua thấy ngọc đẹp cũng mua.
Một hôm, có một người vào tiệm, nhìn quanh quất một hồi rồi hỏi chàng:
Có phải ông là Trương Bạch, bà con của Trương thượng thư ở phủ Khai Phong không?
Trương Bạch nằng nặc chối, nói từ trước tới nay chưa tới phủ Khai Phong bao giờ. Người đó có vẻ nghi, chăm chú nhìn Trương Bạch một hồi rồi nói:
Nghe giọng ông đúng là người phương Bắc, thế ông đã có vợ chưa nhỉ?
Có vợ hay chưa có vợ liên quan gì đến ông?
Mỹ Lan ở trong nhà ghé mắt qua khe cửa dò thám. Khi người nọ đi khỏi, nàng cho chồng hay gã là một viên thư lại trong phủ của thân phụ nàng. Chính đồ ngọc của Trương Bạch đã làm lộ thân thế chàng.
Hôm sau, người đó lại đến. Trương Bạch nói:
Tôi nói cho ông hay, tôi không hiểu ông định làm trò gì?
Tốt lắm. Để tôi nói cho ông hay về gã Trương Bạch này. Y phạm tội mưu sát, lại còn dụ dỗ tiểu thư con quan Thượng Thư, ăn cắp châu báu vàng bạc. Nếu như ông muốn cho tôi tin ông không phải là Trương Bạch thì mời bà nhà ra cho tôi xin một chén trà. Nếu như không phải là Trương tiểu thư thì thôi.
Tôi mở tiệm ở đây làm ăn đứng đắn, hẳn hòi. Nếu ông muốn làm phiền tôi, tôi sẽ đuổi ông ra khỏi cửa.
Người nọ cười khẩy một tiếng rồi đi ra. Vợ chồng Trương Bạch vội vàng thu nhặt những ngọc khí và đồ quí giá, thuê một cái thuyền gỗ, trời chưa sáng đã vội vàng ngược giòng sông chèo đi. Lúc đó đứa con mới được ba tháng.
Âu cũng là vận mệnh xui xẻo, hay trời làm ra thế nên đến Cống Huyện thì đứa nhỏ khởi bệnh, không thể không ngừng lại. Một tháng trời đi thuyền tiền bạc tiêu hết sạch. Trương Bạch đành phải lấy ra một món ngọc khí tuyệt đẹp bán cho một gã lái buôn họ Vương. Đó là một con chó, mắt nửa thức, nửa ngủ.
Tên lái buôn vừa thấy đã reo lên:
Ôi chà, đây là ngọc của tiệm Bảo Hòa đây mà ! Không đâu có thể làm được mà cũng không đâu bắt chước được.
Trương Bạch mừng thầm:
Vâng, tôi mua ở Bảo Hòa đấy.
Cống Huyện nằm ở chân một dãy núi cao. Lúc đó trời đang mùa đông. Trương Bạch càng thích cảnh trí và không khí trong lành. Hai vợ chồng bàn nhau ở lại đây. Khi đứa nhỏ khỏi bệnh, Trương Bạch lại bắt đầu tính chuyện mở tiệm. Cống Huyện là một thành phố lớn, nên ho đi cách đó chừng hai mươi dặm cho chắc ăn. Trương Bạch bàn với vợ bán đi một món ngọc khí làm vốn. Mỹ Lan hồ nghi hỏi:
Tại sao anh lại phải bán ngọc?
Có thế mới đủ tiền mua hàng.
Kỳ này anh nên nghe lời em, mở một tiệm bán đồ sứ.
Sao lại …
Chưa dứt câu, Trương Bạch đã hiểu ý vợ.
Thì tại anh không nghe lời em, suýt nữa mình bị bắt. Đồ ngọc với anh chẳng khác gì tính mệnh, bộ anh không nghĩ đến vợ con hay sao? Đợi bao giờ êm êm hãy nghĩ tới việc khắc ngọc.
Bất đắc dĩ, Trương Bạch phải mở tiệm bán đồ sứ, bán những tượng đất nung. Chàng nặn vài trăm tượng Phật. Mỗi đầu tháng, khi thấy những lái ngọc đi từ Quảng Châu qua, lòng chàng lại nao nao nghĩ đến điêu khắc. Khi đi ngang qua các tiệm bán ngọc, nhìn những món đồ xấu xí bày bán, máu nóng lại nổi lên bừng bừng. Về nhà nhìn thấy những tượng đất đang phơi, chàng lấy ngón tay di nát cả.
Hừ, đất bùn. Ta có thể khắc ngọc mà sao phải đi nặn đất bùn.
Nhìn thấy chồng lên cơn giận dữ, Mỹ Lan sợ lắm vội khuyên:
Thế anh không sợ chết sao?
Một hôm, gã lái buôn họ Vương gặp Trương Bạch, mời chàng vào nhà uống nước, mong mua thêm được vài món ngọc. Trương Bạch hỏi:
Ông đi đâu về thế?
Tôi đi Cát An về đây.
Gã mở bọc ra, nói:
Này ông xem, đồ của tiệm Bảo Hòa bây giờ thế này đây.
Trương Bạch lặng thinh không trả lời. Khi gã Vương lôi ra một con khỉ bằng mã não, chàng la lên:
Đồ giả rồi.
Gã Vương thở dài:
Ông nói không sai. Mặt con khỉ chẳng có thần khí. Nghe ông nói, ông có vẻ rành ngọc lắm nhỉ.
Trương Bạch lạnh nhạt đáp:
Thì đương nhiên tôi rành.
A, thì ra thế. Hôm trước ông có bán cho tôi một con chó, chẳng dấu gì ông, tôi bán lời gấp trăm lần. Ông còn món nào khác không?
Để tôi cho ông xem con khỉ bằng mã não thứ thiệt của tiệm Bảo Hòa.
Trương Bạch dẫn gã Vương về nhà, cho y xem con khỉ mã não chàng khắc hồi ở Cát An. Gã lại năn nỉ hết lời để chàng bán lại cho món ngọc đó. Hôm sau, họ Vương đến Nam Xương khoe ầm lên với các bạn ngọc khác là y mua lại được từ tay một gã bán đồ sứ, rồi chép miệng:
Người như thế mà có những món ngọc đẹp, kể cũng lạ.
Độ sáu tháng sau, ba người nha dịch đến tiệm, đem theo công sự bắt hai vợ chồng giải về kinh đô. Tên bí thư của Trương thượng thư cũng đi theo. Trương Bạch nói:
Để chúng tôi lấy ít đồ mang theo.
Mỹ Lan cũng tiếp lời chồng:
Chúng tôi đem ít đồ cho cháu bé.
Rồi dọa thêm:
Các ngươi đừng quên rằng nó là cháu ngoại quan thượng thư, đi đường nếu nó bệnh, các ngươi phải chịu trách nhiệm.
Những tên nha dịch vốn đã được lệnh quan thượng thư đi đường phải lo cho chu đáo nên đâu dám từ chối. Trương Bạch và vợ ra đằng sau, bọn công sai chờ đằng trước. Quả thực là một cuộc biệt ly đau lòng. Trương Bạch hôn vợ, rồi hôn con, theo cửa sổ thoát ra ngoài. Mỹ Lan nói vói theo:
Đời em lúc nào cũng yêu anh, nhưng anh đừng khắc ngọc nữa nhé.
Hai người nhìn nhau một lần cuối. Khi Trương Bạch đã đi khuất, Mỹ Lan mới quay vào. Nàng cố gắng trấn tĩnh, một mặt dọn đồ, một mặt giả vờ nói chuyện với chồng. Nàng ra ngoài giao cho một tên nha dịch bế con rồi quay vào trong. Đến khi bọn công sai khởi nghi, xông vào tìm thì Trương Bạch đâu còn nữa.
Khi Mỹ Lan về đến nhà, mẹ nàng đã mất, cha đã già đi nhiều. Nàng quì xuống xin lỗi cha, nhưng quan thượng thư mặt lạnh như tiền. Chỉ đến khi trông thấy đứa cháu ngoại, ông mới dịu đi một chút. Cũng may, Trương Bạch đã trốn được, chứ nếu như bắt được y, ông cũng không biết xử sao cho phải. Thế nhưng ông vẫn không thể nào tha thứ cho Trương Bạch được vì y đã làm hỏng đời con ông, làm gia đình ông tan nát.
Qua mấy năm, không ai nghe tin tức gì của Trương Bạch cả. Một hôm quan tri châu họ Dương ở Quảng Châu lên kinh đô. Trương thượng thư thiết yến tiếp Dương tri châu tẩy trần. Trong khi hai người đàm đạo, Dương tri châu cho hay ông có mang theo một pho tượng ngọc cực quí giá, không kém gì pho tượng Quan Âm mà Trương thượng thư dâng lên hoàng hậu ngày nào. Dáng cũng tương tự, mà nét khắc cũng không sai bao nhiêu. Ông định dâng lên hoàng hậu để cùng với pho tượng cũ thành một đôi.
Bàn tiệc ai cũng hoài nghi vì không ai tin có thể có người khắc được pho tượng đẹp như thế. Dương tri châu cao hứng:
Thế thì để tôi đem ra mời quí vị coi.
Khi bữa ăn xong, bàn đã dọn dẹp, Dương tri châu sai lính hầu mang ra một hộp gỗ bóng như mun, mở đem pho tượng Quan Âm để trên bàn. Cả phòng bỗng nhiên không một tiếng động. Chính là pho tượng Quan Thế Âm đại từ, đại bi với nét buồn mênh mang.
Một tì nữ vội vàng vào báo cho Mỹ Lan hay. Khi Mỹ Lan từ vườn sau lên thoạt nhìn pho tượng để trên bàn, mặt nàng bỗng xanh như tàu lá. Nàng lẩm bẩm:
Chàng lại khắc ngọc nữa rồi. Chính là của chàng.
Cố gắng trấn tĩnh, Mỹ Lan lắng nghe xem Trương Bạch còn sống hay đã chết. Một người khách hỏi:
Chẳng hay người nghệ sĩ ấy còn sống chăng?
Dương tri châu đáp:
Con người ấy kể ra thật là lạ lùng. Y không phải là một thợ ngọc thường. Tôi biết được y là do cô cháu gái kể lại. Khi cháu tôi đi lấy chồng có mượn của nhà tôi một cái vòng đeo tay cổ. Vòng này nguyên có một đôi, trên có khắc hai con rồng quấn vào nhau, cực kỳ tinh mỹ. Cô ta sơ ý chẳng may đánh vỡ, sợ lắm vì không thể nào mua đâu mà đền, mà cũng chẳng có ai khắc đẹp như vậy. Cô ta đi lùng khắp các tiệm bán ngọc, nhưng đâu đâu cũng nói là bây giờ không ai có thể làm được như thế. Không biết sao hơn, cô nàng mới dán giấy khắp phố để tìm người.
Không bao lâu, có một người áo quần lam lũ đến nhận làm. Khi đem chiếc vòng ra cho y xem, y bảo y có thể làm được và quả nhiên y khắc một chiếc vòng y hệt chiếc kia. Đó là lần đầu tôi nghe nói đến y.
Sau đó, khi tôi nghe nói hoàng hậu đang đi tìm người nào có thể khắc được một pho tượng giống như pho tượng Quan Âm bà đang có để thành một đôi, tôi nghĩ ngay đến người này. Tôi mua được ở Quảng Châu một khối ngọc tuyệt đẹp nên mời gã ta lại. Khi gã đến, có vẻ như sợ hãi lắm chẳng khác gì một tên ăn trộm bị bắt. Tôi phải mất biết bao công phu mới nói cho y hay là muốn khắc một pho tượng Quan Âm. Khi tôi nói về đôi vòng tai có thể xoay được dường như gã có điều úy kị.
Gã đi chầm chậm vòng quanh khối ngọc, xem kỹ mọi góc độ một lần. Tôi hỏi:
Ông thấy sao? Khối ngọc này có tốt không?
Anh ta ngẩng đầu nhìn tôi, giọng lộ chút tự kiêu:
Khối ngọc này dùng được, khắc tốt lắm. Đã bao nhiêu năm nay, tôi đi kiếm một khối ngọc trắng, nay đã thấy đây. Đại nhân, tôi sẽ khắc một pho tượng, nhưng không muốn ai làm rộn – tôi muốn làm gì thì làm, đừng ai quấy rầy tôi.
Tôi dọn cho anh ta một phòng, trong phòng chỉ giản dị có một cái giường và một cái bàn cùng các vật dụng cần thiết. Người này lạ thật, chẳng nói chuyện với ai, còn có vẻ thô lỗ với những người đem đồ vào cho y.
Khi y bắt đầu vào việc, tưởng chừng như có thần linh nhập vào người. Sau năm tháng làm việc, y cũng không cho tôi ngó tới một lần. Lại thêm ba tháng nữa, y mới đem thành phẩm ra ngoài. Tôi vừa nhìn thấy, chân tay bủn rủn đứng không vững, chẳng khác gì quí vị mới rồi. Y nhìn tác phẩm của mình, mặt lộ một vẻ vô cùng kỳ bí. Y nói:
Đại nhân, tôi muôn vàn cảm tạ ngài. Pho tượng này chính là lịch sử đời tôi.
Tôi chưa kịp đáp lời, gã đã đi mất dạng. Tôi cho người đi tìm nhưng chẳng thấy anh ta đâu, biến mất vô hình vô ảnh.
Bỗng một tiếng đàn bà rú lên thảm thiết từ trong nhà đưa ra, nghe rợn người. Tiếng kêu như xé ruột gan, ai nấy đều chết lặng. Lão thượng thư lật đật chạy vào, Mỹ Lan đã nằm sóng sượt dưới đất. Một người bạn thân cận với gia đình thượng thư, thấy Dương tri châu nghi hoặc, ghé tai nói nhỏ:
Tiếng kêu đó chính là của tiểu thư Mỹ Lan, con gái quan thượng thư. Tôi có linh cảm rằng, người nghệ sĩ này chẳng ai xa, chính là chồng của tiểu thư tên Trương Bạch.
Khi Mỹ Lan tỉnh lại, nàng chạy ra như mê như tỉnh, vuốt ve pho tượng. Nàng ôm lấy pho tượng vào lòng, tưởng như ôm Trương Bạch trong tay. Ai ai cũng thấy, khuôn mặt của pho tượng và Mỹ Lan y hệt nhau, chính là một người.
Khi Dương tri châu nghe xong câu chuyện, ông nói với Mỹ Lan:
Này cháu, cháu giữ lấy pho tượng này. Ta kiếm một lễ phẩm khác dâng lên hoàng hậu cũng được. Pho tượng này sẽ làm cháu nguôi ngoai phần nào. Cháu chưa gặp lại chồng, có pho tượng này cũng đỡ nhớ.
Từ ngày đó, mỗi ngày Mỹ Lan thêm tiều tụy, như người nhiễm phải một căn bệnh lạ lùng. Khi ấy, Trương thượng thư chỉ mong tìm ra Trương Bạch, bao nhiêu chuyện cũ bỏ qua hết. Mùa xuân năm sau, Dương tri châu cho người đến báo, ông đã tìm đủ mọi cách mà không sao tìm ra được tung tích của chồng Mỹ Lan.
Hai năm qua, một cơn ôn dịch lan đến toàn thành. Đứa con của Trương Bạch cũng nhiễm bệnh chết. Mỹ Lan cắt tóc, vào một am ni cô xuất gia, chỉ mang theo duy nhất pho tượng Quan Âm. Cứ như bà ni cô trụ trì, nàng sống một mình một thế giới riêng, không cho một ai vào phòng, kể cả chính bà.
Bà ni cô cũng kể cho quan thượng thư nghe, đêm đêm nàng hay ngồi viết những lá thư dài đem đốt trước pho tượng. Nàng không tiếp xúc với ai, nhưng tựa hồ rất sung sướng mà cũng chẳng làm hại ai.
Mỹ Lan tu ở đó chừng hai mươi năm thì chết. Pho tượng Quan Âm bằng xương bằng thịt tuy chết đi nhưng pho tượng ngọc vẫn còn lại với nhân gian.
Mot So Truyen Ngan cua Lam Ngu Duong
Người Hóa Cá
Thái, người trên bốn mươi, làm một chức sở trưởng sở tại Phủ đường Khiêm Chương ở Tứ Xuyên. Phủ quan là một người họ Chu, đồng liêu với ông ta là hai viên phụ tá Lê và Bạch. Mùa thu năm 758, Thái bị ốm kịch liệt. Chàng bị sốt rét kinh khủng, gia đình chàng tốn công chạy thầy, chạy thuốc cũng đều vô ích. Tới ngày thứ bảy, chàng mê man bất tỉnh, nằm trở như vậy hàng bao nhiêu ngày. Bè bạn và gia đình cầm chắc là chàng sẽ chết. Mới đầu, chàng thấy khát và còn nói được đòi nước uống, về sau chàng mê man thiêm thiếp không ăn uống được gì cả. Chàng cứ ngủ li bì cho tới ngày thứ hai mươi thì bổng nhiên chàng ngáp một cái và ngồi dậy.
Chàng hỏi vợ:
- Ta ngủ được bao lâu rồi?
- Độ ba tuần.
- Phải, chắc là lâu như vậy. Nàng đi tìm các bạn đồng liêu của ta, bảo họ rằng ta đã khỏi bệnh rồi. Hỏi xem họ có ăn gỏi cá chép và giờ khắc này không. Nếu có ăn, bảo họ phải bỏ bữa ăn ngay. Ta có việc muốn bàn với họ. Gọi thằng hầu Chương tới phủ đường. Ta muốn gặp cả nó nữa.
Tên hầu được phái tới phủ đường. Nó thấy quả thật các quan chức đương dùng cơm trưa, và có một đĩa gỏi cá chép nóng hổi, khói lên nghi ngút. Tên hầu đưa thư cho mấy ông đó và mọi người đồng ý đến nhà Thái, họ sung sướng nghe tin bạn đã khỏi bệnh.
Thái hỏi:
- Có phải các bác đã sai thằng hầu Chương mua cá không?
- Có, chúng tôi sai nó.
Thái ngoảnh lại nhìn Chương và hỏi nó:
- Có phải nhà người đã mua cá ở nhà lão chài Triệu Cao, và có phải lão ta từ chối không bán cho nhà ngươi con cá lớn không? Đừng ngắt lời ta. Nhà người thấy con cá chép lớn giấu trong cái thùng nhỏ có phủ bèo, rồi nhà ngươi mua con cá, nhưng nổi giận vì lão chài đã nói dối nên bắt lão đi theo. Khi nhà ngươi đi vào phủ đường, người viên chức thu thuế ngồi ở phía tây, đương đánh cờ. Đúng vậy không? Rồi nhà ngươi đi lên sảnh đường, nhà người trông thấy Chu Phủ quan và Lê Phụ tá đương đánh bài, còn Bạch thì đương ngồi xem, miệng bỏm bẻm nhai lê. Nhà ngươi trình với Bạch về lão chài, rồi Bạch đá cho lão ta một cái lăn chiêng xuống sân. Rồi thì nhà ngươi mang cá xuống bếp, tên đầu bếp Hoàng Triết Lương mổ nó làm bữa trưa. Có phải đúng là sự việc xảy ra như vậy không?
Mọi người hỏi Chương và ai nấy hỏi lại lẫn nhau, và thấy rằng mọi chi tiết đều đúng vậy. Kinh ngạc quá, họ hỏi Thái làm cách nào mà biết hết được như vậy, và đây là câu chuyện ông ta kể cho các bạn nghe:
Khi tôi bị ốm, tôi sốt nóng kinh khủng, như các bác biết. Không chịu được cơn nóng dữ dội, tôi mê man đi, nhưng cái cảm giác nóng sốt vẫn còn và tôi tự hỏi làm cách nào cho bớt nóng đi. Tôi nghĩ đến việc đi dạo chơi trên một bờ sống tuyệt đẹp, rồi cầm một cây trượng và ra đi. Vừa ra khỏi thành là tôi đã thấy ngay không khí mát mẻ hơn lên, tôi cảm thấy dễ chịu ngay tức thì. Tôi thấy khí nóng từ các mái nhà bốc lên và tôi thấy khoan khoái đã bỏ xa chúng ở lại phía sau mình. Tôi đi về phía chân đồi, nơi đó Đông Hồ nối liền với sông.
Tới bờ hồ, nghỉ ngơi trên bờ dưới cây dương liễu. Non nước xanh lơ sao mà quyến rũ thế. Một cơn gió nam nhẹ nhàng thổi qua mặt nước làm cho nước gợn lên như vẩy cá, do đó, tôi có thể theo dõi rõ ràng cử động và phương hướng của gió nam trên mặt hồ. Cảnh vật đều im lặng và bình thản. Bổng tôi ao ước được tắm một cái. Tôi quen thói bơi lội như một đứa trẻ con, nhưng từ lâu lắm tôi không tắm ở trong hồ. Tôi cởi bỏ quần áo và nhào xuống nước, tôi thấy cảm giác mê ly khi nước bao bọc và mơn trớn thân mình và chân tay tôi. Tôi ngụp lặn ướng nước nhiều lần, thấy khoan khoái vô cùng. Tôi chỉ còn nhớ là lúc đó tôi nghĩ rằng: "Thương thay cho Bạch cho Lê và Chu, và tất cả bè bạn cả ngày chúi mũi trong công đường. Ước gì ta được hóa thành con cá một lát để khỏi lôi thôi vướng víu trát với niêm, với công văn, tài liệu. Ta sẽ khoan khoái chừng nào nếu mà ta hóa thành con cá bơi ngày, bơi đêm với nước, chung quanh ta chỉ thấy nước thôi."
Một con cá bơi tới chân ta lúc đó nói ngay rằng:
- Tôi tưởng điều đó dễ làm lắm. Ông có thể hóa cá suốt đời như tôi đây, nếu ông muốn vậy. Tôi có thể giúp ông việc đó được chăng?
- Nếu ngươi có lòng tốt như vậy, ta lấy làm cảm kích vô cùng. Tên ta là Thái Vệ, hiện làm trưởng sở ở phủ lỵ. Bảo với đồng loại ngươi rằng ta rất lấy làm hân hạnh được đổi ngôi vị với bất cứ một người nào trong bọn họ. Chỉ cần cho ta được bơi lội và bơi lội mãi thôi.
Con cá bỏ đi một lát rồi trở lại với một người đầu như đầu cá, người này cỡi trên một con Oa Oa - các bác biết đó, giống vật có bốn chân, sống dưới nước nhưng có thể trèo cây được, khi người ta bắt nó hay giết nó, nó kêu như tiếng trẻ con khóc vậy. Người đầu cá này tới với một đoàn tùy tùng độ mười hai con cá cùng một loại, y đọc chiếu chỉ của vua Thủy Tề. Các bác hãy tin tôi đi, chiếu đã được thảo bằng lối văn xuôi diễm lệ, chiếu đó bắt đầu như sau:
"Con người, một sinh vật trên đất có những lề lối khác biệt với thủy tộc. Chừng nào con người còn giữ hình thể của mình, y không thể tiến bộ mau lẹ ở dưới nước được. Trưởng sở Thái Vệ có một tâm hồn cao cả và sâu sắc, đã đi tìm sự thư thái và siêu thoát ở một đời sống Tự do. Bất mãn và buồn phiền vì những công việc quan, y mơ tưởng đến lạch sông, đáy hồ nước trong xanh mát mẻ, mơ tưởng tới thú tự do và tháng ngày vô tận cùng các trò du hí ở thủy quốc chúng ta. Ước vọng trở thành thần dân thủy tộc của y từ đây được chấp thuận. Y sẽ được làm một con cá chép nâu và được phái tới Đông Hồ làm nơi cư ngụ thường nhật. Than ôi! Đời sống của thủy tộc ở sông và biển có vô vàn sự cám dỗ và cạm bẩy. Có kẻ đã ngốc nghếch cản phá tàu bè; có kẻ vì thiếu từng trải và không kềm chế nổi lòng mình đã bị mắc bẩy, bị bắt bởi đủ các loại dụng cụ của loài người. Không có ở đâu chân lý được rõ ràng bằng dưới nước rằng sự thận trọng là sự bảo đảm tốt nhất cho một đời sống lâu dài. Chúc cho ngươi cư sử khéo léo và đường hoàng, hợp với phong độ cao cả của loài thủy tộc mà ngươi được may mắn làm một thần dân mới. Ngươi hãy làm một con cá khôn ngoan!"
Vừa nghe chiếu chỉ, tôi vừa thấy mình biến đổi thành một con cá, mình tôi được phủ một lớp vẩy đẹp, óng ánh. Sung sướng với sự thay đổi đó, tôi bơi lội ung dung thoải mái, ngoi lên mặt nước rồi lặn xuống tùy theo ý thích với sự cử động nhẹ nhàng của những vây của tôi. Tôi ngoi ra sông, tôi thám hiểm tất cả những hang hốc ở bờ và mọi nguồn, mọi suối, nhưng bao giờ tối đến tôi cũng trở về hồ.
Tuy vậy, một ngày kia, tôi bị đói ghê gớm không thể kiếm được thức gì ăn. Tôi nhìn thấy Triệu Cao quăng cần câu xuống và đợi bắt tôi. Trông con mồi ngon lành cám dỗ quá, hai mang tôi cứ việc chảy rãi ra. Tôi rõ ràng đó là một vật ghê gớm mà tôi rất sợ không dám đụng vào, nhưng tôi cảm thấy đó chính là thứ tôi cần, và tôi không thể tưởng tượng thứ gì khoái hơn nó được đối với miệng tôi. Rồi thì tôi nghĩ tới những lời căn dặn cẩn trọng và tôi bỏ đi, với một sự kiềm chế lớn lao, tôi bơi đi nơi khác.
Nhưng một cái đói kinh khủng vò xé lòng tôi, và tôi không thể chịu đựng được nữa. Tôi tự nhủ lòng: "Mình biết Triệu Cao, và lão ta cũng biết mình. Chắc lão không dám giết mình đâu. Nếu bị bắt, mình sẽ bảo lão mang mình về phủ đường!"
Tôi quay trở lại đớp ngay lấy con mồi, và tôi bị tóm cổ, tất nhiên vậy. Tôi chống cự và vùng vẫy nhưng Triệu Cao lôi tôi lên, môi dưới tôi đẫm máu, thế là tôi đành chịu. Khi lão ta sắp nâng tôi lên, tôi kêu:
- Triệu Cao, Triệu Cao, nghe ta đây! Ta là Thái Vệ, trưởng sở đây! Nhà ngươi sẽ bị tội về việc này đó!
Triệu Cao không nghe thấy lời nói của tôi, lão luồn một sợi dây gai vào mép tôi và quăng tôi vào một cái thùng có phủ bèo.
Tôi nằm đó chờ đợi. Một lát sau, hình như để đáp lại lời cầu khẩn của tôi, Chương từ phủ đường của ta tới. Tôi nghe thấy câu chuyện trong đó Triệu Cao từ chối không bán cho Chương con cá lớn. Vậy mà y cũng nhìn thấy tôi, lôi tôi ra khỏi cái thùng, tôi bị xách tòn ten bởi sợi dây, thật là nguy hiểm.
- Chương, sao mi dám như vậy? Ta là chủ của mi đây. Ta là trưởng sở Thái đây, ta chỉ nhất thời đội lốt cá thôi. Lại đây, bái yết ta đi!
Nhưng Chương không nghe lời tôi, hoặc là có nghe thấy mà cố lờ đi. Tôi gào to thất thanh lên, vùng vẫy lăn lộn mãi nhưng tất cả đều vô hiệu quả.
Khi tôi vào cổng, tôi thấy các viên chức đang đánh cờ gần cửa lớn, tôi kêu lớn lên gọi họ, nói cho họ biết tôi là ai. Tôi lại bị lờ đi. Một viên chức trong bọn họ reo lên:
- A ha! Đẹp đẽ biết bao! Nó phải cân tới ba cân rưỡi.
Các bạn hãy tưởng tượng xem tôi uất ức như thế nào!
Trong sảnh đường, tôi nhìn thấy các bác, như tôi đã kể lại một khắc trước đây. Chương trình với các bác về việc Triệu Cao giấu cá lớn, toan bán nguyên cá nhỏ thế nào, rồi Bạch cáu quá đá một cái thật mạnh vào lão ta, các bác đều khoái trá vì con cá lớn.
- Đem nó vào cho thằng bếp. Bảo nó làm một dĩa gỏi cá chép thật ngon, cho hành, cho nấm, và trộn chút rượu nhé!
Tôi tưởng như là Bạch nói câu đó. Tôi bảo với tất cả các bác:
- Các bạn đồng liêu ơi, đợi một chút đã. Nghe lời tôi đây. Thật là cả một sự lầm lẫn. Tôi là Thái đây. Các bác phải biết tôi chứ. Các bác không thể giết tôi được. Sao các bác lại tàn ác như vậy được?
Tôi cứ phản đối hoài, cãi hoài.
Tôi thấy cãi cũng vô ích vì các bác đều điếc cả. Tôi nhìn các bác với cặp mắt van lơn cầu khẩn, miệng tôi há ra cầu xin tha thiết:
- Hành, nấm và một chút rượu trộn! Sao cái lũ quỷ quái vô lương tâm này nỡ đối xử với bạn của họ như vậy!
Tôi tự nghĩ thế, nhưng tôi không thể làm gì được cả.
Rồi Chương xách tôi vào bếp. Thằng đầu bếp trợn to mắt ra mà nhìn tôi. Mặt nó tươi lên khi nó mài con dao, và đặt tôi lên cái thớt.
- Hoàng Triết Lương! Mi là tên bếp của ta! Chớ có giết ta! Ta xin mi đó!
Hoàng Triết Lương nắm chặt lấy mình tôi. Tôi thấy ánh dao sáng loáng sắp bổ xuống đầu tôi. Phập, lưỡi dao đã hạ xuống, và vừa lúc đó tôi tỉnh dậy.
Nghe chuyện đó, bạn bè của Thái rất xúc động và càng kinh dị hơn vì những điều mà chàng nói với họ đều đúng sự thật từng chi tiết một. Có người nói rằng họ nhìn thấy miệng con cá động đậy nhưng không ai nghe thấy một lời nào cả. Từ đó trở đi, Thái hoàn toàn bình phục, và bạn bè của chàng mãi cho tới già không dám ăn thịt cá chép nữa.
Hết
Thái, người trên bốn mươi, làm một chức sở trưởng sở tại Phủ đường Khiêm Chương ở Tứ Xuyên. Phủ quan là một người họ Chu, đồng liêu với ông ta là hai viên phụ tá Lê và Bạch. Mùa thu năm 758, Thái bị ốm kịch liệt. Chàng bị sốt rét kinh khủng, gia đình chàng tốn công chạy thầy, chạy thuốc cũng đều vô ích. Tới ngày thứ bảy, chàng mê man bất tỉnh, nằm trở như vậy hàng bao nhiêu ngày. Bè bạn và gia đình cầm chắc là chàng sẽ chết. Mới đầu, chàng thấy khát và còn nói được đòi nước uống, về sau chàng mê man thiêm thiếp không ăn uống được gì cả. Chàng cứ ngủ li bì cho tới ngày thứ hai mươi thì bổng nhiên chàng ngáp một cái và ngồi dậy.
Chàng hỏi vợ:
- Ta ngủ được bao lâu rồi?
- Độ ba tuần.
- Phải, chắc là lâu như vậy. Nàng đi tìm các bạn đồng liêu của ta, bảo họ rằng ta đã khỏi bệnh rồi. Hỏi xem họ có ăn gỏi cá chép và giờ khắc này không. Nếu có ăn, bảo họ phải bỏ bữa ăn ngay. Ta có việc muốn bàn với họ. Gọi thằng hầu Chương tới phủ đường. Ta muốn gặp cả nó nữa.
Tên hầu được phái tới phủ đường. Nó thấy quả thật các quan chức đương dùng cơm trưa, và có một đĩa gỏi cá chép nóng hổi, khói lên nghi ngút. Tên hầu đưa thư cho mấy ông đó và mọi người đồng ý đến nhà Thái, họ sung sướng nghe tin bạn đã khỏi bệnh.
Thái hỏi:
- Có phải các bác đã sai thằng hầu Chương mua cá không?
- Có, chúng tôi sai nó.
Thái ngoảnh lại nhìn Chương và hỏi nó:
- Có phải nhà người đã mua cá ở nhà lão chài Triệu Cao, và có phải lão ta từ chối không bán cho nhà ngươi con cá lớn không? Đừng ngắt lời ta. Nhà người thấy con cá chép lớn giấu trong cái thùng nhỏ có phủ bèo, rồi nhà ngươi mua con cá, nhưng nổi giận vì lão chài đã nói dối nên bắt lão đi theo. Khi nhà ngươi đi vào phủ đường, người viên chức thu thuế ngồi ở phía tây, đương đánh cờ. Đúng vậy không? Rồi nhà ngươi đi lên sảnh đường, nhà người trông thấy Chu Phủ quan và Lê Phụ tá đương đánh bài, còn Bạch thì đương ngồi xem, miệng bỏm bẻm nhai lê. Nhà ngươi trình với Bạch về lão chài, rồi Bạch đá cho lão ta một cái lăn chiêng xuống sân. Rồi thì nhà ngươi mang cá xuống bếp, tên đầu bếp Hoàng Triết Lương mổ nó làm bữa trưa. Có phải đúng là sự việc xảy ra như vậy không?
Mọi người hỏi Chương và ai nấy hỏi lại lẫn nhau, và thấy rằng mọi chi tiết đều đúng vậy. Kinh ngạc quá, họ hỏi Thái làm cách nào mà biết hết được như vậy, và đây là câu chuyện ông ta kể cho các bạn nghe:
Khi tôi bị ốm, tôi sốt nóng kinh khủng, như các bác biết. Không chịu được cơn nóng dữ dội, tôi mê man đi, nhưng cái cảm giác nóng sốt vẫn còn và tôi tự hỏi làm cách nào cho bớt nóng đi. Tôi nghĩ đến việc đi dạo chơi trên một bờ sống tuyệt đẹp, rồi cầm một cây trượng và ra đi. Vừa ra khỏi thành là tôi đã thấy ngay không khí mát mẻ hơn lên, tôi cảm thấy dễ chịu ngay tức thì. Tôi thấy khí nóng từ các mái nhà bốc lên và tôi thấy khoan khoái đã bỏ xa chúng ở lại phía sau mình. Tôi đi về phía chân đồi, nơi đó Đông Hồ nối liền với sông.
Tới bờ hồ, nghỉ ngơi trên bờ dưới cây dương liễu. Non nước xanh lơ sao mà quyến rũ thế. Một cơn gió nam nhẹ nhàng thổi qua mặt nước làm cho nước gợn lên như vẩy cá, do đó, tôi có thể theo dõi rõ ràng cử động và phương hướng của gió nam trên mặt hồ. Cảnh vật đều im lặng và bình thản. Bổng tôi ao ước được tắm một cái. Tôi quen thói bơi lội như một đứa trẻ con, nhưng từ lâu lắm tôi không tắm ở trong hồ. Tôi cởi bỏ quần áo và nhào xuống nước, tôi thấy cảm giác mê ly khi nước bao bọc và mơn trớn thân mình và chân tay tôi. Tôi ngụp lặn ướng nước nhiều lần, thấy khoan khoái vô cùng. Tôi chỉ còn nhớ là lúc đó tôi nghĩ rằng: "Thương thay cho Bạch cho Lê và Chu, và tất cả bè bạn cả ngày chúi mũi trong công đường. Ước gì ta được hóa thành con cá một lát để khỏi lôi thôi vướng víu trát với niêm, với công văn, tài liệu. Ta sẽ khoan khoái chừng nào nếu mà ta hóa thành con cá bơi ngày, bơi đêm với nước, chung quanh ta chỉ thấy nước thôi."
Một con cá bơi tới chân ta lúc đó nói ngay rằng:
- Tôi tưởng điều đó dễ làm lắm. Ông có thể hóa cá suốt đời như tôi đây, nếu ông muốn vậy. Tôi có thể giúp ông việc đó được chăng?
- Nếu ngươi có lòng tốt như vậy, ta lấy làm cảm kích vô cùng. Tên ta là Thái Vệ, hiện làm trưởng sở ở phủ lỵ. Bảo với đồng loại ngươi rằng ta rất lấy làm hân hạnh được đổi ngôi vị với bất cứ một người nào trong bọn họ. Chỉ cần cho ta được bơi lội và bơi lội mãi thôi.
Con cá bỏ đi một lát rồi trở lại với một người đầu như đầu cá, người này cỡi trên một con Oa Oa - các bác biết đó, giống vật có bốn chân, sống dưới nước nhưng có thể trèo cây được, khi người ta bắt nó hay giết nó, nó kêu như tiếng trẻ con khóc vậy. Người đầu cá này tới với một đoàn tùy tùng độ mười hai con cá cùng một loại, y đọc chiếu chỉ của vua Thủy Tề. Các bác hãy tin tôi đi, chiếu đã được thảo bằng lối văn xuôi diễm lệ, chiếu đó bắt đầu như sau:
"Con người, một sinh vật trên đất có những lề lối khác biệt với thủy tộc. Chừng nào con người còn giữ hình thể của mình, y không thể tiến bộ mau lẹ ở dưới nước được. Trưởng sở Thái Vệ có một tâm hồn cao cả và sâu sắc, đã đi tìm sự thư thái và siêu thoát ở một đời sống Tự do. Bất mãn và buồn phiền vì những công việc quan, y mơ tưởng đến lạch sông, đáy hồ nước trong xanh mát mẻ, mơ tưởng tới thú tự do và tháng ngày vô tận cùng các trò du hí ở thủy quốc chúng ta. Ước vọng trở thành thần dân thủy tộc của y từ đây được chấp thuận. Y sẽ được làm một con cá chép nâu và được phái tới Đông Hồ làm nơi cư ngụ thường nhật. Than ôi! Đời sống của thủy tộc ở sông và biển có vô vàn sự cám dỗ và cạm bẩy. Có kẻ đã ngốc nghếch cản phá tàu bè; có kẻ vì thiếu từng trải và không kềm chế nổi lòng mình đã bị mắc bẩy, bị bắt bởi đủ các loại dụng cụ của loài người. Không có ở đâu chân lý được rõ ràng bằng dưới nước rằng sự thận trọng là sự bảo đảm tốt nhất cho một đời sống lâu dài. Chúc cho ngươi cư sử khéo léo và đường hoàng, hợp với phong độ cao cả của loài thủy tộc mà ngươi được may mắn làm một thần dân mới. Ngươi hãy làm một con cá khôn ngoan!"
Vừa nghe chiếu chỉ, tôi vừa thấy mình biến đổi thành một con cá, mình tôi được phủ một lớp vẩy đẹp, óng ánh. Sung sướng với sự thay đổi đó, tôi bơi lội ung dung thoải mái, ngoi lên mặt nước rồi lặn xuống tùy theo ý thích với sự cử động nhẹ nhàng của những vây của tôi. Tôi ngoi ra sông, tôi thám hiểm tất cả những hang hốc ở bờ và mọi nguồn, mọi suối, nhưng bao giờ tối đến tôi cũng trở về hồ.
Tuy vậy, một ngày kia, tôi bị đói ghê gớm không thể kiếm được thức gì ăn. Tôi nhìn thấy Triệu Cao quăng cần câu xuống và đợi bắt tôi. Trông con mồi ngon lành cám dỗ quá, hai mang tôi cứ việc chảy rãi ra. Tôi rõ ràng đó là một vật ghê gớm mà tôi rất sợ không dám đụng vào, nhưng tôi cảm thấy đó chính là thứ tôi cần, và tôi không thể tưởng tượng thứ gì khoái hơn nó được đối với miệng tôi. Rồi thì tôi nghĩ tới những lời căn dặn cẩn trọng và tôi bỏ đi, với một sự kiềm chế lớn lao, tôi bơi đi nơi khác.
Nhưng một cái đói kinh khủng vò xé lòng tôi, và tôi không thể chịu đựng được nữa. Tôi tự nhủ lòng: "Mình biết Triệu Cao, và lão ta cũng biết mình. Chắc lão không dám giết mình đâu. Nếu bị bắt, mình sẽ bảo lão mang mình về phủ đường!"
Tôi quay trở lại đớp ngay lấy con mồi, và tôi bị tóm cổ, tất nhiên vậy. Tôi chống cự và vùng vẫy nhưng Triệu Cao lôi tôi lên, môi dưới tôi đẫm máu, thế là tôi đành chịu. Khi lão ta sắp nâng tôi lên, tôi kêu:
- Triệu Cao, Triệu Cao, nghe ta đây! Ta là Thái Vệ, trưởng sở đây! Nhà ngươi sẽ bị tội về việc này đó!
Triệu Cao không nghe thấy lời nói của tôi, lão luồn một sợi dây gai vào mép tôi và quăng tôi vào một cái thùng có phủ bèo.
Tôi nằm đó chờ đợi. Một lát sau, hình như để đáp lại lời cầu khẩn của tôi, Chương từ phủ đường của ta tới. Tôi nghe thấy câu chuyện trong đó Triệu Cao từ chối không bán cho Chương con cá lớn. Vậy mà y cũng nhìn thấy tôi, lôi tôi ra khỏi cái thùng, tôi bị xách tòn ten bởi sợi dây, thật là nguy hiểm.
- Chương, sao mi dám như vậy? Ta là chủ của mi đây. Ta là trưởng sở Thái đây, ta chỉ nhất thời đội lốt cá thôi. Lại đây, bái yết ta đi!
Nhưng Chương không nghe lời tôi, hoặc là có nghe thấy mà cố lờ đi. Tôi gào to thất thanh lên, vùng vẫy lăn lộn mãi nhưng tất cả đều vô hiệu quả.
Khi tôi vào cổng, tôi thấy các viên chức đang đánh cờ gần cửa lớn, tôi kêu lớn lên gọi họ, nói cho họ biết tôi là ai. Tôi lại bị lờ đi. Một viên chức trong bọn họ reo lên:
- A ha! Đẹp đẽ biết bao! Nó phải cân tới ba cân rưỡi.
Các bạn hãy tưởng tượng xem tôi uất ức như thế nào!
Trong sảnh đường, tôi nhìn thấy các bác, như tôi đã kể lại một khắc trước đây. Chương trình với các bác về việc Triệu Cao giấu cá lớn, toan bán nguyên cá nhỏ thế nào, rồi Bạch cáu quá đá một cái thật mạnh vào lão ta, các bác đều khoái trá vì con cá lớn.
- Đem nó vào cho thằng bếp. Bảo nó làm một dĩa gỏi cá chép thật ngon, cho hành, cho nấm, và trộn chút rượu nhé!
Tôi tưởng như là Bạch nói câu đó. Tôi bảo với tất cả các bác:
- Các bạn đồng liêu ơi, đợi một chút đã. Nghe lời tôi đây. Thật là cả một sự lầm lẫn. Tôi là Thái đây. Các bác phải biết tôi chứ. Các bác không thể giết tôi được. Sao các bác lại tàn ác như vậy được?
Tôi cứ phản đối hoài, cãi hoài.
Tôi thấy cãi cũng vô ích vì các bác đều điếc cả. Tôi nhìn các bác với cặp mắt van lơn cầu khẩn, miệng tôi há ra cầu xin tha thiết:
- Hành, nấm và một chút rượu trộn! Sao cái lũ quỷ quái vô lương tâm này nỡ đối xử với bạn của họ như vậy!
Tôi tự nghĩ thế, nhưng tôi không thể làm gì được cả.
Rồi Chương xách tôi vào bếp. Thằng đầu bếp trợn to mắt ra mà nhìn tôi. Mặt nó tươi lên khi nó mài con dao, và đặt tôi lên cái thớt.
- Hoàng Triết Lương! Mi là tên bếp của ta! Chớ có giết ta! Ta xin mi đó!
Hoàng Triết Lương nắm chặt lấy mình tôi. Tôi thấy ánh dao sáng loáng sắp bổ xuống đầu tôi. Phập, lưỡi dao đã hạ xuống, và vừa lúc đó tôi tỉnh dậy.
Nghe chuyện đó, bạn bè của Thái rất xúc động và càng kinh dị hơn vì những điều mà chàng nói với họ đều đúng sự thật từng chi tiết một. Có người nói rằng họ nhìn thấy miệng con cá động đậy nhưng không ai nghe thấy một lời nào cả. Từ đó trở đi, Thái hoàn toàn bình phục, và bạn bè của chàng mãi cho tới già không dám ăn thịt cá chép nữa.
Hết
Mot So Truyen Ngan cua Lam Ngu Duong
GÃ RÂU XỒM
Lời mở đầu:
Đây là một truyện ngắn nguyên tác nhan đề Cầu Nhiêm Khách Truyện trích trong Thái Bình Quảng Ký, chương 193, của Đỗ Quang Đình (850 - 933) (cũng có nơi cho là của Trương Thuyết). Đỗ Quang Đình người huyện Tấn Vân, tỉnh Triết Giang, vốn là một đạo sĩ ở Ngũ Đài Sơn, làm quan Nội Cung Phụng nhà Đường, sau vào đất Thục. Dưới triều Vương Kiến ông làm Tử Quang Lộc Đại Phu, Luyện nghị Đại Phu. Sau khi Vương Kiến mất, dưới đời Hậu Chúa ông được phong làm Toàn Chân Thiên Sư, Vinh Chân Quan Đại Học Sĩ. Khi ông về hưu, ở ẩn tại núi Thanh Thành mất năm 84 tuổi.
Truyện Cầu Nhiêm Khách rất được người Trung Hoa tán thưởng. Kim Thánh Thán cũng cho phút vui thứ 33 của cuộc đời là đọc truyện Cầu Nhiêm Khách. Kim Dung cũng viết một thiên tiểu luận về truyện này và cho rằng đây là truyện võ hiệp đầu tiên của người Trung Hoa. Nếu bạn nào đọc kỹ truyện Thiên Long Bát Bộ, trong đoạn Đoàn Dự luận về các loại hoa trà cho Vương Phu nhân nghe ở Mạn Đà Sơn Trang cũng có đề cập đến những nhân vật trong truyện này:
“Vương phu nhân vẻ mặt đắc ý, nói:
- Đoàn công tử, nước Đại Lý của cậu hoa trà rất nhiều, nhưng nếu so sánh với của ta chắc không thể bì kịp.
Đoàn Dự gật đầu:
- Những hoa trà loại này dân Đại Lý chúng tôi chẳng ai trồng cả.
Vương phu nhân cười khanh khách:
- Thật ư?
Đoàn Dự nói:
- Những người dân quê mùa tầm thường ở Đại Lý cũng biết các loại hoa này phẩm chất kém cỏi, trồng chẳng cao sang gì.
Vương phu nhân mặt biến sắc, giận dữ nói:
- Ngươi nói sao? Ngươi bảo hoa trà ta trồng là loại tục phẩm ư? Nói như thế chẳng hóa, chẳng hóa... khinh người quá lắm.
Đoàn Dự nói:
- Phu nhân tin hay không tin cũng tùy ở người.
Chàng vừa nói vừa chỉ một cây hoa trà ngũ sắc trước lầu:
- Giá thử như cây này, bà tưởng nó quí lắm ư. Hứ, đẹp thật, cái lan can này thật là đẹp, thật là đẹp.
Chàng tấm tắc khen cái lan can đẹp mà hoa thì chẳng nhắc đến một câu khác nào người xem chữ viết, không nhắc đến chữ mà chỉ khen lấy khen để mực đen và giấy tốt.
Cây hoa trà đó vừa trắng vừa đỏ, vừa tía vừa vàng, sắc hoa thật là rực rỡ, từ trước tới nay Vương phu nhân vẫn coi là trân phẩm. Nay thấy Đoàn Dự có vẻ xem thường nên lông mày bà nhướng lên, mắt lộ sát ý. Đoàn Dự nói:
- Xin hỏi phu nhân, giống hoa này ở Giang Nam gọi tên là gì?
Vương phu nhân hậm hực đáp:
- Chúng tôi chẳng gọi tên gì đặc biệt, chỉ gọi là hoa trà Ngũ Sắc.
Đoàn Dự mỉm cười:
- Đại Lý chúng tôi có đặt cho nó một cái tên, gọi là Lạc Đệ Tú Tài (thư sinh thi hỏng).
Vương phu nhân hừ một tiếng:
- Cái tên sao khó nghe làm vậy, chắc ngươi tiện mồm đặt ra chứ gì. Cây hoa đẹp đẽ như thế sao lại giống gã thư sinh thi hỏng?
- Phu nhân thử nhìn lại xem, cây hoa này cả thảy tất cả mấy màu.
Vương phu nhân nói:
- Ta đã đếm qua, cũng phải có đến 15, 16 màu khác nhau.
Đoàn Dự nói:
- Cả thảy đúng ra là 17 màu. Đại Lý có một loại hoa quí giá nổi tiếng tên gọi Thập Bát Học Sĩ. Đó là thiên hạ cực phẩm, trên cây có đủ 18 đóa hoa, mỗi đóa một màu khác nhau, hồng thì toàn hồng, tía thì toàn tía, không một mảy lẫn lộn. Nhưng cả 18 đóa hoa mỗi đóa hình trạng khác nhau, mỗi đóa một vẻ, nở thì cùng nở, tàn thì cùng tàn, phu nhân đã thấy bao giờ chưa?
Vương phu nhân nghe qua thẫn thờ, lắc đầu:
- Trên đời này lại có loại hoa như thế sao? Đến nghe nói tới ta cũng chưa nghe bao giờ.
Đoàn Dự nói:
- So với Thập Bát Học Sĩ kém một mức là Thập Tam Thái Bảo là 13 đóa hoa khác nhau trên cùng một cây. Rồi đến Bát Tiên Quá Hải là 8 đóa khác nhau một cây. Thất Tiên Nữ là 7 đóa. Phong Trần Tam Hiệp là ba đóa. Nhị Kiều là một trắng một đỏ hai đóa. Nói đến hoa trà là phải thuần sắc, nếu như trong đỏ có lẫn trắng, trong trắng lẫn tía thì là hạ phẩm rồi.
Vương phu nhân bỗng nhiên đờ đẫn, nhìn về xa xăm, nói một mình:
- Sao y không nói cho ta biết nhỉ?
Đoàn Dự nói tiếp:
- Trong Bát Tiên Quá Hải có cả hoa màu tía sậm và màu hồng nhạt, đó là Lý Thiết Quài và Hà Tiên Cô, nếu thiếu hai màu đó, dù là tám màu khác nhau cũng không được gọi là Bát Tiên Quá Hải mà gọi là Bát Bảo Trang, tuy cũng là danh chủng nhưng so với Bát Tiên Quá Hải còn thua một bậc.
Vương phu nhân nói:
- Nguyên lai như thế.
Đoàn Dự lại tiếp:
- Trở lại Phong Trần Tam Hiệp cũng có chính phẩm và phó phẩm. Nếu là chính phẩm, trong ba đóa thì đóa màu tía phải to nhất, đó là Cầu Nhiêm Khách, đóa màu trắng nhỏ hơn, đó là Lý Tịnh, đóa màu hồng nhỏ nhất nhưng cũng kiều diễm nhất đó là Hồng Phất Nữ. Nếu như hoa màu hồng lại to hơn hoa màu tía, hoa màu trắng thì là phó phẩm, hai đằng một trời một vực.
Người ta đã bảo quen thuộc như đồ trong nhà mình. Trong nhà Đoàn Dự có tất cả những loại này nên chàng nói ra vanh vách đâu ra đấy. Vương phu nhân nghe thật thích thú thở dài:
- Đến phó phẩm ta cũng chưa được nhìn qua nói gì chính phẩm!
Đoàn Dự chỉ vào cây hoa trà ngũ sắc nói:
- Còn loại hoa trà này, nếu luận về sắc so với Thập Bát Học Sĩ còn kém một, lại không thuần, nở thì khi sớm khi muộn, hoa thì đóa nhỏ đóa to. Chẳng khác gì Đông Thi giả nhăn mặt, học đòi làm Thập Bát Học Sĩ thì không xong. Vì thế chúng tôi đặt cho cái tên Lạc Đệ Tú Tài.” (Trích trong Thiên Long Bát Bộ, tập 2, trang 495-7 của Kim Dung. Viễn Ảnh xuất bản, Đài Bắc 1981)
Cầu Nhiêm Khách được Lâm Ngữ Đường viết lại theo thể văn mới và đã từng được nhiều người dịch ra tiếng Việt. Bản dịch này chúng tôi căn cứ vào Trung Quốc truyền kỳ tiểu thuyết là một bản dịch qua chữ Hán của Trương Chấn Ngọc, do Đức Hoa xuất bản xã ấn hành năm 1980[1]. Các tài liệu về Đỗ Quang Đình trích trong phần phụ đính bộ Hiệp Khách Hành của Kim Dung do Minh Hà xuất bản năm 1979.
*
* *
Hôm ấy vào khoảng 9 giờ đêm. Lý Tịnh xõa tóc ngồi trên giường, tâm thần phiền não. Chàng là một thanh niên độ ngoài 30, thân hình cao lớn, vai rộng, ngực nở, dáng dấp hiên ngang. Lý Tịnh vừa ăn cơm xong, vươn người để những bắp thịt cuồn cuộn nổi lên như muốn phát tiết cái uất khí trong người. Chàng buồn bực vì trong lòng mang đại chí mà không có dịp nào thi thố.
Sáng sớm nay, chàng đã đến bái yết quan trấn thủ Tây Kinh Dương Tố để trình lên một phương lược cứu nước. Khi thấy gã đường quan béo ị tỏ vẻ thờ ơ không nhìn nhõi gì đến phương sách của chàng, Lý Tịnh lặng yên không nói một lời.
Hồi đó, hoàng đế đang cùng các phi tần nam du Kim Lăng, trao cho họ Dương trấn thủ Tây Kinh. Mang trọng trách như thế mà y nằm dài trên giường, mục hạ vô nhân. Mặt y chẩy xệ như một con heo, môi hơi trề ra, mắt hấp háy, cái mũi to sần sùi thở khìn khịt. Hai mươi mỹ nữ thanh xuân bưng trà và bánh kẹo, cầm phất trần đứng hầu hai bên. Những chiếc phất trần làm bằng lông đuôi ngựa trắng toát, phe phẩy xem ra thập phần an nhàn tự tại.
Lý Tịnh đứng chờ trong lòng khó chịu. Hai mắt chàng sáng ngời, nghĩ đến xã tắc như một trái chín rục rụng lúc nào không biết. Loạn lạc nổi lên như ong, vậy mà nơi đây cái tảng thịt ấy vẫn vui chơi bằng gái đẹp, rượu ngon.
Dương Tố liếc qua danh thiếp, giọng uể oải khó chịu:
- Ngươi là ai?
- Tôi là một người dân thường. Thế nhưng chẳng lẽ tướng quân không thèm tiếp một người học trò có chí khí, muốn thực hành. Đó đâu phải là lễ dùng tiếp đãi một kẻ sĩ.
- Xin lỗi. Mời ngồi.
Ngay lúc ấy, không biết từ đâu thốt ra một tiếng kêu khẽ đầy vẻ kinh ngạc và có tiếng vật gì rơi xuống đất. Lý Tịnh đưa mắt nhìn theo nơi phát ra tiếng động, chàng bắt gặp một thiếu nữ mảnh dẻ mặc áo hồng đang cúi xuống nhặt phất trần nhưng đôi mắt đen láy vẫn đăm đăm nhìn chàng.
- Ngươi định xin ta điều gì?
- Tôi chẳng xin gì cả. Đại nhân có muốn cầu điều gì chăng?
- Ta ư?
Dương Tố cau mặt lại khi nghe giọng chàng thanh niên có vẻ vô lễ.
- Tôi muốn hỏi tướng quân có muốn điều gì chăng. Phương sách cứu nước, kẻ hiền tài chẳng hạn...
- Phương sách à?
Dương Tố trầm ngâm một giây, thở ra miễn cưỡng:
- Đâu nào?
Lý Tịnh rút từ trong bọc ra tập điều trần chàng đã dày công soạn thảo, đưa lên. Dương Tố cầm cuộc giấy để lên một chiếc kỷ thấp gần bên, hững hờ:
- Còn gì nữa không?
Lý Tịnh hơi sẵng giọng:
- Chỉ có thế thôi.
Và chàng cáo từ lui ra. Suốt thoi gian người thanh niên nói chuyện với Dương Tố, cô gái áo hồng nhìn chàng không nháy mắt. Ánh mắt hai người đã mấy lần chạm nhau. Khi Lý Tịnh xoay người để ra cửa, chiếc phất trần vẫn còn nằm trên mặt đất.
Cuộc yết kiến Dương Tố không có gì vui nhưng chàng cảm thấy vui vẻ vì đã gặp được cô gái áo hồng. Cho đến bây giờ khi ngồi trên giường, hồi tưởng lại cô gái, người thanh niên bỗng dưng bật lên mấy tiếng cười.
Thình lình có tiếng gõ cửa nhè nhẹ. Lý Tịnh bất giác giật mình tự hỏi giờ giấc khuya khoắt này còn ai đến thăm? Chẳng lẽ Dương Tố sau khi đọc cuốn sách của chàng? Hé cửa nhìn ra, chàng nhận ra một bóng người mảnh khảnh khoác một chiếc áo tơi, đầu trùm khăn, vai vác một cây gậy, một đầu lủng lẳng bọc vải.
- Ngươi là ai?
- Thiếp là ngươi tì nữ cầm phất trần trong Dương phủ - Ngươi con gái sẽ giọng - Thiếp vào nhà được không?
Lý Tịnh sửa lại áo quần, mời cô gái vào. Thái độ thần bí và cách phục sức làm chàng ngạc nhiên. Nhìn kỹ, cô ta chỉ độ 18, 19 tuổi. Nàng cởi áo tơi để qua một bên. Lý Tịnh sững sờ nhìn thiếu nữ mỹ lệ trong bộ áo hoa chẽn và chiếc quần hồng. Cô gái cúi đầu, hạ chân hành lễ giải thích:
- Xin tiên sinh tha lỗi cho. Hôm nay thiếp gặp tiên sinh khi người vào yết kiến Dương tướng quân và nhờ địa chỉ trên danh thiếp để lại nên thiếp biết được đến bái phỏng.
- Thì ra là thế !
Lý Tịnh thắt lại dây đai, nhìn ra cửa sổ vọng thám một lượt. Ánh mắt cô gái cũng đưa theo.
- Lý tiên sinh, thiếp trốn đi đấy!
- Trốn ư? Không ai đuổi theo sao?
Ngươi con gái nở một nụ cười ngọt ngào và kiều mị:
- Chàng đừng lo. Thiếp có một người bạn gái trẻ tuổi đang mong mỏi địa vị của thiếp nên thiếp đã nhượng cho y. Vả lại, Dương phủ nhiều ngươi, chắc chẳng ai để ý đến thiếp đâu. Tình hình trong phủ cũng như đất nước hiện nay, chẳng ai nghĩ đến việc trung với chủ. Nói thực ra ai cũng hận y, chỉ mong thu vét được chút nào hay chút ấy.
Lý Tịnh moi cô gái ngồi vào chiếc ghế lành lặn nhất nhưng đôi mắt thiếu nữ vẫn đăm đăm nhìn chàng.
- Lý tiên sinh, thiếp đã đọc bài viết của chàng!
- Nàng đọc rồi ư? Nàng thấy sao?
- Thiếp thấy thật uổng cho ngọc để ngâu vầy, đàn gẩy tai trâu.
Lý Tịnh thấy cô gái nói chuyện thật thú vị:
- Y không đọc đến ư?
- Không!
Qua ánh mắt, Lý Tịnh thấy nàng biểu lộ một con ngươi đầy trí tuệ, đôi mắt nhìn chàng như mỉm cười.
- Vì thế nàng có ý định trốn đi, phải không?
Cô gái khoan thai ngồi xuống ghế:
- Để thiếp giải thích đôi lời. Ai ai cũng biết nước sắp mất, nơi nơi đại loạn, chỉ có cái xác biết đi ấy còn mê mê hồ hồ. Trong phủ ai ai cũng hiểu như thế nhưng chưa định được chủ ý đấy thôi.
Ngừng lại vài giây, cô gái nói tiếp:
- Thành ra số người bỏ trốn không phải là ít. Hôm nay vừa gặp chàng thiếp đã thấy đúng như ngươi thiếp hằng mong đợi.
Lý Tịnh quan sát kỹ cô gái thấy nhan sắc tuyệt vời cũng chưa bì kịp với kế hoạch đào tẩu và đầu óc tinh minh, viễn kiến. Chàng biết rằng một khi chiến sự lan đến kinh đô, Dương Tố bỏ chạy hay bị bắt thì thân phận những cô gái như nàng sẽ ra sao. Nếu không bị loạn binh bắt được, ô uế vũ nhục thì cũng bị bán làm nô tì. Ngươi nàng dong dỏng, mắt hơi dài hơn ngươi thường. Gò má hơi cao nhưng khuôn mặt trái xoan càng làm tăng vẻ mỹ lệ.
- Lý tiên sinh, chàng thử xem thân phận nữ nhi chúng tôi phải làm sao bây giờ?
Giọng cô gái thoáng vẻ buồn.
- Tôi quên chưa hỏi quí tính của cô nương?
- Thiếp họ Trương.
- Không có tên ư?
Cô gái trầm ngâm chốc lát, trả lời với vẻ hơi phật ý:
- Cứ gọi thiếp là Hồng Phất.
Nàng nhìn thẳng vào mặt Lý Tịnh:
- Thiếp đã từng gặp hàng trăm, hàng ngàn người đến bái yết Dương tướng quân nhưng chẳng một ai được như chàng.
Cô gái hiển nhiên có chủ ý ra đi không quay trở về và muốn kết duyên cùng Lý Tịnh. Lý Tịnh nếu không cáo tố nàng không thể không lấy nàng làm vợ.
- Nàng có biết, tương lai sẽ rất nhiều gian khổ. Theo chân một võ nhân, nay nơi này mai nơi khác, hành quân chiến trận không một giờ phút an nhàn ư?
- Điều đó, đọc phương sách của chàng thiếp đã hiểu rồi.
- Chỉ mới gặp nhau một lần sáng nay mà nàng đã bằng lòng làm ngươi bạn suốt đời của ta sao?
- Họ Dương thất lễ, chàng dám khiển trách y. Trước nay chưa ai có đảm lượng như thế. Thiếp vẫn hằng tự nhủ phải kiếm được một người lỗi lạc như vậy. Nếu chàng bằng lòng, thiếp quay về lo vài việc rồi trở lại.
Lý Tịnh không một chút do dự, gật đầu. Khoảng một giờ sau cô gái trở lại. Lý Tịnh trong lòng thảng thốt, nửa phần hoan hỉ, nửa phần âu lo. Chàng là một ngươi khách giang hồ, dưới tay không một ai thân tín. Chốc chốc chàng lại nhìn ra cửa sổ xem động tĩnh, có ai đuổi theo không.
Lạ thay, Hồng Phất lại rất trấn tĩnh, cặp mắt luôn luôn nhìn chàng tỏ ra nhu tình vô hạn. Lý Tịnh hỏi:
- Nàng không có ai thân thích ư?
- Không có ai, chẳng còn ai, nếu không đã chẳng phải đến ở Dương phủ. Thế nhưng lúc này thiếp thấy sung sướng vô cùng.
Dù nàng không buột miệng nói ra thì trong đôi mắt những gì uẩn tàng, phấn khởi chứa chất trong nửa ngày qua cũng đã hiện lên tất cả.
- Ta không có một chút danh phận gì, nàng biết không?
- Nhưng chàng có hùng tâm vạn trượng sớm muộn gì cũng thành đại nghiệp.
- Làm sao nàng biết?
- Thì ở phương sách chàng đã viết.
Lý Tịnh cười buồn, không phải vì chàng coi thường văn chương của chính mình. Chàng vẫn tự hào là người đọc nhiều hiểu rộng, thiên tư hơn người. Từ chiến lược tới cách điều binh chàng đều có phép tắc riêng, sáng suốt khác thường.
- Phải rồi, ở phương sách của ta. Quả thực nàng yêu áng văn ấy ư?
- Thật chứ, thiếp thích áng văn đó - hay nói đúng hơn, thiếp thích người viết áng văn đó nhưng Dương tướng quân đã không nhìn nhõi đến, thật là đáng tiếc.
Nàng tiếp tục cho Lý Tịnh hay vì sao nàng yêu chàng, từ nghi biểu anh tuấn đến khuôn mặt vuông vức, dáng dấp hiên ngang, ngực nở vai rộng và đôi mắt trong suốt đầy tú khí. Cả người chàng toát ra không chỗ nào không uy võ, không hùng tráng.
Mấy hôm sau, Lý Tịnh nghe đồn Dương Tố đang sai vệ sĩ đi truy tầm cô gái. Dẫu đó chỉ là chuyện thông thường, Lý Tịnh cũng bắt nàng phải cải nam trang, lên ngựa ra đi. Hồng Phất hỏi:
- Bây giờ mình đi đâu?
- Đến Thái Nguyên thăm một ngươi bạn.
Vào thời buổi nhiễu nhương này, người đi đường xa quả thực nhiều nguy hiểm. Nhưng tin vào khả năng võ nghệ, Lý Tịnh không e ngại gì. Chàng đủ sức đánh bại 10 người miễn là không bị ám toán. Chàng là hạng người mang đại chí, hào hiệp dũng cảm, nhìn thấy nhà Tùy đang sụp đổ, nếu biết kết giao bằng hữu, nghiên cứu thời thế, địa hình để khi có cơ hội thì cử binh mưu đồ đại sự. Lúc bấy giờ những người như chàng không phải là ít và thường cải trang lữ hành, bí mật tìm kiếm anh hùng hào kiệt để làm bạn.
Lý Tịnh cho ngựa chạy nước kiệu, vừa rong ruổi vừa hỏi:
- Nàng có tin vào số mệnh không?
- Chàng nói vậy nghĩa là sao?
- Ta muốn hỏi nàng có tin vào thiên mệnh chăng. Ta có biết một thanh niên là con quan thái thú Thái Nguyên Lý Uyên. Ngươi bạn ta, Lưu Văn Tĩnh rất thân với y, đang cùng y bí mật trù hoạch để dụ cha y tham gia cử binh khởi sự. Lưu Văn Tĩnh kính phục y lắm, tin rằng y chính là Chân Long Thiên Tử.
Hồng Phất kinh ngạc kêu lên:
- Chân Long Thiên Tử?
- Đúng thế !
Đôi mắt Lý Tịnh trông thật nghiêm nghị, nói tiếp:
- Nhất định có một ngày y sẽ lên ngôi hoàng đế. Y khí vũ bất phàm. Nàng có tin vào tướng pháp không?
- Dĩ nhiên thiếp tin chứ. Nếu không thiếp đâu có theo chàng. Thế nhưng hình dáng y có gì đặc biệt khác người?
- Ta cũng không biết nói thế nào đây. Có điều y rất anh tuấn, khôi ngô, hơn hẳn người thường nhưng không sao tả ra được. Một khi y bước vào nhà, nàng sẽ thấy ngay cái nghi biểu của y. Không biết từ đâu đến nhưng có cảm tưởng từ cái khí tương đế vương trời cho. Ta mong rằng nàng sẽ có dịp gặp y, lúc ấy sẽ biết lời nói của ta là thế nào.
- Tên y là gì?
- Lý Thế Dân. Người ta thường gọi y là Nhị Lang vì y là con thứ của Lý tướng quân.
Lý Thế Dân - đó chính là người khai sáng ra Đường Triều, vị Hoàng Đế trong gần 1000 năm qua được toàn dân sùng bái, con người bao gồm cả uy dũng, trí tuệ, nhân đức. Ông ngồi trên ngai vàng mấy chục năm, của một thời đại thái bình, thịnh vượng. Những người như thế có thể do tướng pháp mà nhìn ra được. Đó phải là một người phi thường và có thể lập nên công nghiệp phi thường thì ắt phải có một uy nghi phi thường.
Lý Tịnh và Hồng Phất trọ lại một tiểu điếm ở Linh Thạch. Căn phòng bày biện gọn ghẽ. Tại một góc, trên bếp lửa bừng bừng, một nồi đồ ăn tỏa khói nghi ngút. Hồng Phất đã bỏ nam trang đang chải lại mái tóc dài. Tóc nàng chảy xuống giường và Lý Tịnh thì đang tắm cho ngựa ngoài sân.
Ngay lúc ấy, một người có bộ râu xồm đỏ hung, thân hình tầm thước, cưỡi trên một con lừa gầy gò đi vào trong quán. Y chẳng tỏ ra lễ phép, cũng không buồn để ý đến có đàn bà ở trước mặt, quẳng cái túi da lên nền đất để làm gối rồi nằm duỗi dài cả hai chân nhưng đôi mắt lóng lánh nhìn chăm chăm vào Hồng Phất khiến cho Lý Tịnh phải bực mình. Tuy nhiên chàng thản nhiên chải bờm ngựa, chỉ đưa mắt liếc ngang người khách lạ.
Hồng Phất cũng để mắt nhìn y mấy lần thấy y mặc một bộ quần áo da, một chuôi đao thò ra khỏi thắt lưng. Y toát ra một thần thái uy nghiêm khiến người ta không thể xúc phạm. Vì thế nàng lấy tay vén mái tóc nghiêng người ra hiệu cho Lý Tịnh đừng nổi nóng, cũng đừng để ý đến y làm gì.
Khi chải đầu xong, nàng đi lại trước mặt người khách lạ, ôn tồn hỏi thăm tên tuổi. Người lạ từ từ nhỏm dậy cho hay y họ Trương, hàng thứ ba. Hồng Phất dịu dàng:
- Thiếp cũng họ Trương, vậy hóa ra mình là chỗ họ hàng nhỉ.
- Cô thứ mấy?
- Thiếp là lớn nhất!
- Vậy ta sẽ gọi nàng là Đại muội muội. Hôm nay gặp được một cô em cùng họ. Thật đáng
mừng.
Đến đây, Lý Tịnh bước vào nhà. Hồng Phất gọi:
- Lý Tịnh, lại đây chào Tam ca.
Người khách lạ thái độ thật niềm nở, ngôn ngữ ngọt ngào, cử chỉ thật là đắc thể, tỏ ra một tay giang hồ lịch duyệt. Y đưa mắt nhìn qua hai người và như đã biết rõ tất cả mọi việc của cặp vợ chồng trẻ. Lý Tịnh cũng nhìn qua y biết y cũng thuộc giới như mình. Chàng cũng mong gặp được người như thế để có thể cùng nhau đối ẩm, đàm luận cho thống khoái, sảng trực không phải câu nệ như những ngươi thường gặp hàng ngày. Những người như thế là người khi thời cơ đến có thể cùng nhau mưu việc lớn, sát cánh chung vai, đồng cam cộng khổ chung sức đối phó với kẻ thù.
Gã râu xồm hỏi:
- Nồi đang nấu gì thế?
Hồng Phất đáp:
- Thịt cừu.
- Ta đói rồi.
Nghe vậy, Lý Tịnh vội đi ra mua vài chiếc bánh nướng để cùng ăn trưa. Gã râu xồm rút dao găm cắt thịt, còn xương đút cho con lừa gặm chẳng e ngại gì. Y quay sang Hồng Phất:
- Các ngươi quả là một cặp vợ chồng hạnh phúc. Nghèo mà vui, phải không? Cô làm sao kiếm được anh chàng này đây? Để ta thử đoán xem nhé? Các ngươi nhất định không phải chính thức kết hôn mà ắt từ đâu dẫn nhau trốn đến đây. Ta nói có đúng không? Không đúng ư? Đại muội muội đừng lo.
Giọng gã râu xồm nghe thật thân thiết. Lý Tịnh không chớp mắt nhưng trong lòng hơi lo vì chẳng hiểu sao y lại biết rõ như thế. Từ dung mạo ư? Hay do những móng tay dài của Hồng Phất nói lên cái bí mật của hai người, tỏ ra nàng vốn từ một nơi giàu có?
- Có lẽ anh nói đúng đấy !
Lý Tịnh nói xong cười ha hả, mắt chàng và gã râu xồm chạm nhau. Muốn tìm hiểu gã có mưu đồ gì, chàng nói tiếp:
- Nàng bỏ trốn theo tôi chính như anh nói. Có điều nàng không phải là một nữ nhân tầm thường mà biết rằng thiên hạ sắp có một cơn hồng thủy.
- Hồng thủy ư?
Mắt gã đảo quanh bốn bề.
- Ấy chỉ là một ẩn dụ !
Gã râu xồm nhìn sang Hồng Phất không dấu được vẻ kính phục.
- Các ngươi từ đâu đến?
- Từ kinh đô.
Lý Tịnh điềm nhiên nói thật mắt không rời người khách lạ.
- Có rượu không nhỉ?
- Bên kia đường có một quán rượu.
Gã râu xồm đứng lên đi ra. Hồng Phất không hiểu ý của Lý Tịnh:
- Sao chàng nói cho y biết tất cả vậy?
- Em đừng lo. Giang hồ hảo hán so với bọn làm nghề quan lại nghĩa khí hơn nhiều, mới gặp y nhưng anh biết rằng có thể tâm đầu ý hợp.
- Lúc y cắt thịt anh không có ở đây. Y lấy thịt mà chẳng thèm hỏi em lấy một tiếng rồi đặt
chỗ còn thừa lên bàn chẳng khác gì của y không bằng.
- Đó chính là chỗ hay của hắn. Nếu như hắn thật khiêm cung, giả thân mật thì anh lại chẳng coi y ra gì. Những ngươi như thế không thể đánh giá chỉ qua miếng thịt. Xem ra y có vẻ mến em đó!
- Thiếp cũng thấy như thế!
Gã râu xồm mua rượu về. Mặt gã đỏ, mỗi lần y nói những gân hai bên cổ lại nổi lên. Thanh âm khề khà trầm xuống nhưng lời ăn tiếng nói vẫn rành mạch, không tỏ vẻ say sưa. Luận về các nhóm đang khởi sự hắn chẳng ca tụng ai dường như chẳng ai xứng đáng. Lý Tịnh nghe nhưng lòng vẫn suy nghĩ. Y nhất định cũng là người đang mưu đồ đại sự. Muốn thử lại cái ý thức của y, chàng hỏi:
- Anh xem Dương Tố thế nào?
Gã râu xồm vụt phóng lưỡi dao xuống mặt bàn, cươi ha hả một tràng dài. Lưỡi dao cắm ngập vào gỗ, rung bần bật, ánh sáng lấp lánh một lúc lâu mới ngừng lại:
- Nói tới y làm gì?
- Để xem ý kiến của anh về hắn thế nào?
Lý Tịnh thuật lại cho y việc chàng yết kiến họ Dương rồi cùng Hồng Phất trốn đi kể lại một lượt.
- Các ngươi bây giờ định đi đâu?
- Chúng tôi tính đi Thái Nguyên, tạm ẩn nơi đó một thời gian.
- Ngươi nghĩ có được không? Ngươi có biết Thái Nguyên có một kỳ nhân?
Lý Tịnh nói là chàng có biết một người tên Lý Thế Dân, ai ai cũng cho là chân long thiên tử.
- Ngươi nghĩ người đó như thế nào?
- Y quả thực không phải tầm thường.
Gã râu xồm bỗng dưng mặt đanh hẳn lại. Một lát sau, y hỏi:
- Liệu ta có thể gặp y một lần được không?
- Tôi có một người bạn tên Lưu Văn Tĩnh đối với y thân lắm, có thể nhờ y giới thiệu. Nhưng sao anh lại muốn gặp y?
- Ta có tài xem tướng ít khi sai.
Lý Tịnh không nghĩ đến việc hai người chỉ gặp nhau một lần mà có thể biết được mệnh vận của người kia. Hai người ước định sẽ lên đường đi Thái Nguyên sáng sớm hôm sau, và sẽ gặp nhau tại cầu Phần Dương. Gã râu xồm nhất định giành trả tiền phòng nói là làm quà cho cô em họ.
Sau đó gã leo lên lưng con lừa gầy còm đi mất. Khi hai người quay về phòng trọ, Lý Tịnh nói với vợ:
- Ta tin rằng y nhất định đòi gặp chân long thiên tử hẳn phải có một nguyên nhân trọng đại. Y quả thật là một người lạ lùng.
Đến giờ hẹn, Lý Tịnh gặp gã râu xồm, cùng nhau ăn sáng trong không khí mờ mờ sương phủ của đất Phần Dương rồi lên đường tới Lưu gia. Suốt quãng đường, hai người không nói một câu nhưng cảm thấy thật thân tình, tưởng như tình giữa hai người cùng chí hướng. Lý Tịnh thân thể khôi ngô, hùng tráng còn gã râu xồm thì hành động sảng khoái, lanh lẹ như một kiếm khách lành nghề, hai chân như đầy khí lực, đi hàng trăm dặm xem như trò chơi. Lý Tịnh nghĩ đến kẻ được mệnh danh là chân long thiên tử:
- Anh tin vào tướng diện ư?
- Cốt cách, khí sắc của một con người là biểu hiện của cá tính. Mắt miệng, mũi, cằm, tai đều có mang tinh thần và khí lực trong đó lại thêm khí sắc đậm nhạt, nông sâu - cái gì cũng nói lên được lẽ gặp gỡ, sự thành tựu của con người. Cũng giống như một cuốn sách vậy, có điều ngươi phải biết cách đọc mà thôi. Con người mạnh hay yếu, giảo hoạt hay thành thực, quyết đoán, tàn nhẫn, cơ mẫn, trí trá đều có thể nhìn thấy được. Cái học vấn ấy rất thâm ảo cũng vì cá tính con người là cái gì phức tạp nhất trên đời, phối hợp ngang dọc đủ mọi chiều.
- Nói thế khi sinh ra con người đã có số mệnh rồi sao?
- Cũng không sai hẳn. Không ai có thể chạy khỏi số mệnh cũng như không ai có thể thoát khỏi cái cá tính riêng của mình. Không có thể có hai người khuôn mặt hoàn toàn giống nhau. Con người trong lòng nghĩ gì thì ngoài mặt hiện ra như thế. Không sai một li. Con người sống trên đời, có những việc xảy đến nhưng từ bên ngoài thì ít mà tự mình mời lại thì nhiều.
Càng đến gần nhà họ Lưu, Lý Tịnh thấy gã râu xồm càng tỏ vẻ bồn chồn, hơi thở xem chừng dồn dập. Tới cổng Lưu gia, Lý Tịnh tiến vào trước nói:
- Tôi có một người bạn, người ấy muốn được gặp Lý Nhị Lang. Y là một ngươi xem tướng nổi tiếng, hiện đang đứng chờ trước ngõ.
Lưu Văn Tĩnh nói:
- Xin mời vào ngay.
Lý Tịnh đi ra mời gã râu xồm vào nhà. Lúc đó, Lưu Văn Tĩnh và Lý Thế Dân đã đồng mưu khởi sự nên khi nghe đến người giỏi xem tướng, biết được mệnh vận thì rất muốn gặp. Khi gã râu xồm vào đến nơi, Lưu Văn Tĩnh mời ngồi nghỉ, một mặt dặn người làm cơm trưa và một mặt sai gia nhân đi mời Lý Thế Dân đến.
Chẳng mấy chốc, gã râu xồm nhìn thấy một thanh niên đến, trên người khoác chiếc áo da, đầu ngẩng thẳng, thân thể cao lớn, mặt vui vẻ, nhiệt thành, nếu chỉ bảo là đẹp trai thì chưa đủ. Khi y vừa đến tưởng như có ánh sáng tỏa ra chung quanh, tuy mắt không đảo qua nhưng không vật gì trong nhà mà không nhìn thấy. Mũi y thẳng , sống mũi nổi cao, đầu mũi nhọn, ria mép đỏ và vểnh lên trông tưởng như có thể treo một cánh cung mà không rớt. Lý Tịnh thấy gã râu xồm mắt như chim ưng rình mồi, không rời nhìn ngươi thanh niên cao lớn này để đánh giá. Sau cơm trưa, gã nói với Lý Tịnh:
- Giá như có người bạn đạo sĩ của ta ở đây thì hay biết mấy.
Nói ra tưởng như khó tin nhưng khi hai người ra về, mặt gã râu xồm khác hẳn tưởng như có ai mới đánh y một trận, khiến y cúi đầu ủ rũ, tâm địa bất an. Lý Tịnh hỏi:
- Anh xem Lý Thế Dân thế nào?
Liên tiếp hỏi mấy lần không thấy y trả lời. Mãi về sau, gã râu xồm mới lẩm bẩm trả lời mà tưởng như nói một mình:
- Xem chừng tám chín phần mười y chính là chân long thiên tử rồi. Nhưng cũng phải để người bạn đạo sĩ của ta xem lại đã. Hiện giờ ngươi trọ ở đâu?
Lý Tịnh cho hay họ định ở tại một tiểu điếm nọ.
- Vậy thì các ngươi theo ta.
Gã râu xồm dẫn Lý Tịnh đến trước một quán trọ sang trọng. Y đi vào một lát sau trở ra đưa cho Lý Tịnh một bao giấy, trong đựng toàn bạc vụn ước chừng 3, 40 lượng. Gã nói:
- Đem cái này về mướn cho cô em ta một căn phòng cho tốt nhé.
Lý Tịnh bất giác giật mình.
- Đừng giữ ý làm chi. Cầm lấy.
Lý Tịnh hỏi:
- Anh mới lấy của người ta đấy ư?
Gã râu xồm nghe vậy cười rộ:
- Chủ quán này là bạn ta, ngươi không tin ư? Ta đã dặn y rồi, bất cứ lúc nào ngươi cần cứ việc tới lấy thêm. Ta biết hoàn cảnh các ngươi hiện nay không lấy gì làm khá giả, ta không muốn đại muội muội phải khó khăn. Ta cũng chắc ngươi không ở đấy lâu. Hãy tới Lạc Dương ở với ta. Một tháng nữa ta sẽ chờ các ngươi tại đó.
Gã ngửng đầu lên, bấm ngón tay tính toán một hồi:
- Ngày mồng 3 tháng 2, ta về rồi đấy. Ngươi đến một chuồng ngựa ở phía đông, bên cạnh có một quán rượu nhỏ thì sẽ thấy con lừa của ta và một con la buộc ở bên ngoài thì nghĩa là ta và bạn ta đang ở trên lầu, cứ việc lên thẳng là gặp.
Về tới tiểu điếm, gã râu xồm cũng chưa có ý từ giã mà lại cùng Lý Tịnh vào trong quán. Y đối đãi với Hồng Phất chẳng khác gì em ruột, đối với Lý Tịnh chẳng khác gì anh em. Tối hôm đó, y sai dọn một mâm thịnh soạn mời vợ chồng Lý Tịnh cùng uống, chẳng có ý gì muốn ra đi. Cứ thế ba ngươi uống rượu mãi tới khuya.
- Đại muội muội, cô đừng ngại gì cứ đi ngủ trước.
Y chưa có vẻ muốn đi mà cũng chẳng tỏ vẻ mỏi mệt. Hồng Phất lên giường rồi, mắt mở không ra mà gã cũng vẫn chưa đi. Tới khi trời sáng, Lý Tịnh cũng mệt quá nằm gục xuống bàn mà gã vẫn một mình nói thao thao bất tuyệt. Trời sáng hẳn, gã râu xồm đánh thức Lý Tịnh dậy:
- Ta đến Ngũ Đài Sơn trước, mồng 3 tháng 2 sẽ về Lạc Dương. Ngươi nhất định không được quên nhé, đến lúc đó mang đại muội muội tới.
Đúng kỳ hạn, vợ chồng Lý Tịnh đến Lạc Dương, tìm quán rượu đã chỉ. Thoạt nhìn thấy ngay hai con vật buộc ở bên ngoài, nên bước lên lầu.
- Ta biết thể nào các ngươi cũng đến.
Gã râu xồm đứng dậy đón và giới thiệu hai người với một đạo sĩ, ngươi đạo sĩ mà y bảo là tinh nghiên pháp thuật, thiên văn, tướng pháp có cái sở học có thể quyết định được họa phúc và những việc vô hình. Ông ta rất ôn hòa, nói rất ít, và chăm chú quan sát để đánh giá vợ chồng Lý Tịnh nhưng không để cho hai người biết. Tuy trầm tĩnh nhưng ông ta rất nhiệt tình.
Đột nhiên ông ta nói với Lý Tịnh:
- Ông là người trọng võ khinh văn.
- Quả đúng thế. Thời này cần võ lực hơn là sách vở.
Đạo sĩ mới nói một câu đã đúng khiến Lý Tịnh không khỏi kinh ngạc. Chàng vốn dĩ là người bác lãm quần thư và thuở mới 16, 17 chọn đường văn hay đường võ đã phải tính toán rất nhiều.
Gã râu xồm lúc ấy mới dẫn hai người tới một căn phòng nói rằng:
- Các ngươi cứ ở lại đây, nhất định an toàn vô sự, không phải e ngại gì cả. Cái quán này là của ta, trên lầu sẵn tiền, các ngươi tùy ý muốn tiêu bao nhiêu thì tiêu. Hãy mua cho muội muội vài món đồ.
Thế là Lý Tịnh ở lại trên lầu của tửu quán. Gã râu xồm thường lui tới thăm hỏi, hai người ngồi nói chuyện hồi lâu, bàn luận về chuyện dùng binh đánh trận, khiến cho Lý Tịnh được ích lợi không phải là ít. Cũng chính đó là binh pháp sau này Lý Tịnh dùng trong chiến trận, tinh diệu phi thường. Những điều hai người nói chuyện không phải là chuyện nóng máu hung hăng mà là biết địch, tìm chỗ yếu điểm, một lần tấn công là xong. Cũng như đánh rắn phải đập đầu chứ không đối địch diên trì lấy bao vây làm cho địch khốn đốn. Cứ như thế hai người thảo luận, nghiên cứu, thường tới quá nửa đêm. Còn người đạo sĩ thì đêm đêm quan sát tinh tượng đất Thái Nguyên, tìm xem việc tinh đẩu hội hợp như thế nào, khí sắc mây biến hóa ra sao. Chuyện đó cả gã râu xồm lẫn Lý Tịnh đếu không am tường.
Vài mươi ngày sau, đạo sĩ nói muốn đến gặp Lý Thế Dân.
Gã râu xồm nói:
- Xin người bạn của ngươi giới thiệu cho gặp Lý Thế Dân được chăng? Ta muốn y nói cho ta biết rốt ráo Lý Thế Dân có thực là chân long thiên tử hay không? Một lời của y nói ra thì mọi sự đều quyết định được cả.
- Nếu như y thực là chân long thiên tử, thì anh định sao? Đánh nhau với y chăng? Hay liên hợp với y?
Gã râu xồm đáp:
- Ta không tranh giành với vận mệnh.
Lý Tịnh hỏi tiếp:
- Thế liên hợp với y ư?
Gã râu xồm hiểu ý, cươi ha hả. Y đưa ra một câu ngạn ngữ:
- Đồ ngốc. Thà làm đầu gà, đâu làm đuôi trâu.
Thế là cả bọn kéo đến Thái Nguyên. Tới nơi, họ giới thiệu với Lưu Văn Tĩnh đạo sĩ là người xem được tinh tướng đoán việc vị lai. Lưu Văn Tĩnh lúc ấy đang cùng bạn đánh cờ, nên mời đạo sĩ ngồi xuống tiếp người bạn, còn y đứng dậy viết một phong thư, cho người đi mời Lý Thế Dân sang xem. Gã râu xồm cùng Lý Tịnh đứng một bên quan chiến.
Một lát sau, Lý Thế Dân đến, bình thản ngồi xuống bên cạnh, không nói một lời. Đó chính là phép xem đánh cờ. Gã râu xồm lấy tay khều Lý Tịnh. Thời ấy là lúc anh hùng thiên hạ mang đao, đeo kiếm nhưng chân long thiên tử so với người thường cũng có khác. Đạo sĩ tuy để hết tinh thần vào bàn cờ trước mặt, nhưng thực ra là đang quan sát người có chân mệnh đế vương kia không sót một hơi thở, để xem cái cái khí tượng hơn người ở chỗ nào ngõ hầu tính toán, trù liệu.
Lý Thế Dân điềm nhiên ngồi coi, hai vai xuôi xuống, hai tay để trên đầu gối. Mắt y chăm chú nhìn vào bàn cờ, đôi lông mày đen nhánh thỉnh thoảng động đậy, hai mắt như có ánh sáng chiếu ra, tưởng chừng nhìn xuyên qua mọi việc. Chừng năm phút sau, đạo sĩ lấy tay đẩy bàn cờ ra, nói với Lưu Văn Tĩnh:
- Thế cờ này thua hẳn rồi, nhất định như thế. Không có cách gì cứu vãn được. Con tốt của ông đi hay lắm, đi thật hay, tôi không bì kịp.
Trên thực tế, bàn cờ chưa có gì nguy ngập như lời đạo sĩ nói là không phương cứu vãn, nhưng xem chừng y không muốn phí thêm khí lực, nên đứng dậy, thở dài một tiếng.
Ba người khách hướng về chủ nhân cáo từ rồi ra đi.
Đến bên ngoài, đạo sĩ nói với gã râu xồm:
- Ngươi thua thật rồi. Người có chân mệnh đang ngồi trong đó. Không nên để phí khí lực. Bất quá, ngươi nên đi tìm phương khác mà chinh phục.
Lần đầu tiên Lý Tịnh thấy gã râu xồm lưng như còng xuống, hai vai buông xuôi. Gã đang trải qua một cơn biến hóa nội tâm.
- Đại thế nếu đã biến rồi thì kế hoạch của ta cũng phải đổi theo. Các ngươi ở Lạc Dương cho ta. Nửa tháng sau ta sẽ quay trở lại.
Gã râu xồm nói xong, một mình đi mất. Lý Tịnh không tiện hỏi thêm, cùng đạo sĩ trở về Lạc Dương. Khi gã râu xồm quay trở lại, y nói với Hồng Phất:
- Ta muốn đưa cô em đến thăm nội nhân. Đại muội muội, ta có một món muốn giao cho cô và Lý Tịnh.
Từ trước đến nay, Lý Tịnh chưa hề biết gã ở đâu nên thấy việc y làm hơi khác thường. Gã đưa hai người đến một căn phòng có một cánh cửa gỗ nhỏ. Đi vào tầng thứ nhất thì thấy một tòa đại sảnh, xây dựng thật hoa lệ bề thế. Vài chục đầy tớ trai gái đứng hai bên. Hai người được dẫn vào gian phía đông là nơi để khách rửa mặt. Từ đài gương đến cổ kính, bồn thau và các cây đèn thủy tinh, tủ áo đều là những đồ tuyệt hảo. Các vật dụng không gì không quí giá.
Một lát sau, gã râu xồm cùng vợ đến. Gã giới thiệu phu nhân với vợ chồng Lý Tịnh. Bà ta độ chừng hai mươi tuổi, vô cùng xinh đẹp, cùng trượng phu tiếp đãi hết sức thân mật, nhiệt thành. Đến giờ ăn, nhạc nữ đến đánh đàn, ca khúc thật êm tai, Lý Tịnh từ trước chưa được nghe bao giờ. Sau khi ăn uống xong, đầy tớ tiến vào mang độ chừng hơn chục mâm gỗ, trên phủ nhiễu vàng cùng xếp vào chân tường phía đông. Sau khi xếp xong, gã râu xồm mới nói cùng Lý Tịnh:
- Có món này tặng cho các ngươi.
Gã đưa tay lấy các khăn che ra, Lý Tịnh nhìn thấy thì ra trên các mâm đầy văn kiện, khế ước, các sổ sách giấy tờ và mấy chiếc chìa khóa lớn.
Gã râu xồm nói:
- Kể cả các châu báu trong nhà, giá trị ước chừng mươi vạn lượng, đều cho ngươi cả, chớ có từ chối. Ta vốn dĩ đã trù liệu một kế hoạch, tích trữ tiền bạc để khi thời cơ đến thì tổ chức quân đội, mua sắm võ khí mong lập thành đại nghiệp. Thế nhưng bây giờ không còn dùng đến nữa. Lý Nhị Lang đất Thái Nguyên, ta tin chắc rằng chính là chân long thiên tử. Ngươi lấy những thứ này đem phò tá y để hoàn thành công nghiệp vĩ đại. Nếu phò tá y, đừng quên binh pháp ta đã truyền thụ. Chỉ năm năm, mười năm sau, Lý Thế Dân sẽ chinh phục xong Trung nguyên, ngươi nên trung tâm giúp y để chung hưởng phú quí. Còn phần ta đã có mưu tính riêng. Mười hai năm sau, nếu như ngươi nghe thấy bên ngoài biên cương Trung quốc, có ngươi chinh phục dị vực, kiến quốc xưng vương thì ắt là ngươi bạn cũ của ngươi đấy. Đến lúc đó, ngươi cùng đại muội muội hướng về đông nam uống mừng ta một chén.
Kế đó y hướng về các nam nữ tì bộc và gia nhân nói:
- Từ nay trở đi, Lý tiên sinh là chủ của các ngươi. Những gì của ta đều thuộc về y cả, em gái ta là nữ chủ nhân mới của các ngươi.
Sau khi gã râu xồm chính thức dặn dò xong, y quay về thay đổi trang phục lữ hành cùng vợ cưỡi ngựa ra đi, chỉ có một người đầy tớ trai theo hầu, từ đó không ai gặp lại y nữa.
Vài năm sau, Lý Tịnh đông chinh tây chiến, giúp nhà Đại Đường thống nhất toàn quốc. Sau khi Lý Thế Dân lên ngôi hoàng đế, thiên hạ thái bình. Lý Tịnh được giao chức vụ quan trọng, thống soái ba quân. Một hôm y đọc các công văn quân đội, có người tại phương Nam Trung quốc, đem 4, 5 vạn quân từ ngoài biển kéo vào nước Phù Dư, chinh phục toàn quốc rồi xưng đế. Gã râu xồm không chịu làm kẻ vô danh trong nước nên tới nơi xa xăm, làm vua một cõi. Y từng lập chí làm vua một phương nay đã thành.
Chiều hôm ấy, Lý Tịnh về đến nhà nói lại cho Hồng Phất nghe.
- Quả thật y là một hào kiệt không chịu kém ai.
Vợ chồng Lý Tịnh không quên lời dặn của người bạn cũ lúc chia tay. Ăn cơm xong, hai ngươi đốt hai ngọn hồng lạp, đứng trông về phương nam nâng ly chúc mừng ngươi bằng hữu thuở xưa.
Hồng Phất nói:
- Sao chàng không vì y mà hết sức, tỉ như xin hoàng thượng ban cho y một tước hiệu gì?
- Không nên làm phiền y. Hoàng thượng phong thưởng không làm cho y thích thú. Dù ở nơi nào y cũng muốn là ngươi chí tôn vô thượng.
Nói rồi chàng thở dài:
- Quả thực anh hùng hảo hán.
Hết
Lời mở đầu:
Đây là một truyện ngắn nguyên tác nhan đề Cầu Nhiêm Khách Truyện trích trong Thái Bình Quảng Ký, chương 193, của Đỗ Quang Đình (850 - 933) (cũng có nơi cho là của Trương Thuyết). Đỗ Quang Đình người huyện Tấn Vân, tỉnh Triết Giang, vốn là một đạo sĩ ở Ngũ Đài Sơn, làm quan Nội Cung Phụng nhà Đường, sau vào đất Thục. Dưới triều Vương Kiến ông làm Tử Quang Lộc Đại Phu, Luyện nghị Đại Phu. Sau khi Vương Kiến mất, dưới đời Hậu Chúa ông được phong làm Toàn Chân Thiên Sư, Vinh Chân Quan Đại Học Sĩ. Khi ông về hưu, ở ẩn tại núi Thanh Thành mất năm 84 tuổi.
Truyện Cầu Nhiêm Khách rất được người Trung Hoa tán thưởng. Kim Thánh Thán cũng cho phút vui thứ 33 của cuộc đời là đọc truyện Cầu Nhiêm Khách. Kim Dung cũng viết một thiên tiểu luận về truyện này và cho rằng đây là truyện võ hiệp đầu tiên của người Trung Hoa. Nếu bạn nào đọc kỹ truyện Thiên Long Bát Bộ, trong đoạn Đoàn Dự luận về các loại hoa trà cho Vương Phu nhân nghe ở Mạn Đà Sơn Trang cũng có đề cập đến những nhân vật trong truyện này:
“Vương phu nhân vẻ mặt đắc ý, nói:
- Đoàn công tử, nước Đại Lý của cậu hoa trà rất nhiều, nhưng nếu so sánh với của ta chắc không thể bì kịp.
Đoàn Dự gật đầu:
- Những hoa trà loại này dân Đại Lý chúng tôi chẳng ai trồng cả.
Vương phu nhân cười khanh khách:
- Thật ư?
Đoàn Dự nói:
- Những người dân quê mùa tầm thường ở Đại Lý cũng biết các loại hoa này phẩm chất kém cỏi, trồng chẳng cao sang gì.
Vương phu nhân mặt biến sắc, giận dữ nói:
- Ngươi nói sao? Ngươi bảo hoa trà ta trồng là loại tục phẩm ư? Nói như thế chẳng hóa, chẳng hóa... khinh người quá lắm.
Đoàn Dự nói:
- Phu nhân tin hay không tin cũng tùy ở người.
Chàng vừa nói vừa chỉ một cây hoa trà ngũ sắc trước lầu:
- Giá thử như cây này, bà tưởng nó quí lắm ư. Hứ, đẹp thật, cái lan can này thật là đẹp, thật là đẹp.
Chàng tấm tắc khen cái lan can đẹp mà hoa thì chẳng nhắc đến một câu khác nào người xem chữ viết, không nhắc đến chữ mà chỉ khen lấy khen để mực đen và giấy tốt.
Cây hoa trà đó vừa trắng vừa đỏ, vừa tía vừa vàng, sắc hoa thật là rực rỡ, từ trước tới nay Vương phu nhân vẫn coi là trân phẩm. Nay thấy Đoàn Dự có vẻ xem thường nên lông mày bà nhướng lên, mắt lộ sát ý. Đoàn Dự nói:
- Xin hỏi phu nhân, giống hoa này ở Giang Nam gọi tên là gì?
Vương phu nhân hậm hực đáp:
- Chúng tôi chẳng gọi tên gì đặc biệt, chỉ gọi là hoa trà Ngũ Sắc.
Đoàn Dự mỉm cười:
- Đại Lý chúng tôi có đặt cho nó một cái tên, gọi là Lạc Đệ Tú Tài (thư sinh thi hỏng).
Vương phu nhân hừ một tiếng:
- Cái tên sao khó nghe làm vậy, chắc ngươi tiện mồm đặt ra chứ gì. Cây hoa đẹp đẽ như thế sao lại giống gã thư sinh thi hỏng?
- Phu nhân thử nhìn lại xem, cây hoa này cả thảy tất cả mấy màu.
Vương phu nhân nói:
- Ta đã đếm qua, cũng phải có đến 15, 16 màu khác nhau.
Đoàn Dự nói:
- Cả thảy đúng ra là 17 màu. Đại Lý có một loại hoa quí giá nổi tiếng tên gọi Thập Bát Học Sĩ. Đó là thiên hạ cực phẩm, trên cây có đủ 18 đóa hoa, mỗi đóa một màu khác nhau, hồng thì toàn hồng, tía thì toàn tía, không một mảy lẫn lộn. Nhưng cả 18 đóa hoa mỗi đóa hình trạng khác nhau, mỗi đóa một vẻ, nở thì cùng nở, tàn thì cùng tàn, phu nhân đã thấy bao giờ chưa?
Vương phu nhân nghe qua thẫn thờ, lắc đầu:
- Trên đời này lại có loại hoa như thế sao? Đến nghe nói tới ta cũng chưa nghe bao giờ.
Đoàn Dự nói:
- So với Thập Bát Học Sĩ kém một mức là Thập Tam Thái Bảo là 13 đóa hoa khác nhau trên cùng một cây. Rồi đến Bát Tiên Quá Hải là 8 đóa khác nhau một cây. Thất Tiên Nữ là 7 đóa. Phong Trần Tam Hiệp là ba đóa. Nhị Kiều là một trắng một đỏ hai đóa. Nói đến hoa trà là phải thuần sắc, nếu như trong đỏ có lẫn trắng, trong trắng lẫn tía thì là hạ phẩm rồi.
Vương phu nhân bỗng nhiên đờ đẫn, nhìn về xa xăm, nói một mình:
- Sao y không nói cho ta biết nhỉ?
Đoàn Dự nói tiếp:
- Trong Bát Tiên Quá Hải có cả hoa màu tía sậm và màu hồng nhạt, đó là Lý Thiết Quài và Hà Tiên Cô, nếu thiếu hai màu đó, dù là tám màu khác nhau cũng không được gọi là Bát Tiên Quá Hải mà gọi là Bát Bảo Trang, tuy cũng là danh chủng nhưng so với Bát Tiên Quá Hải còn thua một bậc.
Vương phu nhân nói:
- Nguyên lai như thế.
Đoàn Dự lại tiếp:
- Trở lại Phong Trần Tam Hiệp cũng có chính phẩm và phó phẩm. Nếu là chính phẩm, trong ba đóa thì đóa màu tía phải to nhất, đó là Cầu Nhiêm Khách, đóa màu trắng nhỏ hơn, đó là Lý Tịnh, đóa màu hồng nhỏ nhất nhưng cũng kiều diễm nhất đó là Hồng Phất Nữ. Nếu như hoa màu hồng lại to hơn hoa màu tía, hoa màu trắng thì là phó phẩm, hai đằng một trời một vực.
Người ta đã bảo quen thuộc như đồ trong nhà mình. Trong nhà Đoàn Dự có tất cả những loại này nên chàng nói ra vanh vách đâu ra đấy. Vương phu nhân nghe thật thích thú thở dài:
- Đến phó phẩm ta cũng chưa được nhìn qua nói gì chính phẩm!
Đoàn Dự chỉ vào cây hoa trà ngũ sắc nói:
- Còn loại hoa trà này, nếu luận về sắc so với Thập Bát Học Sĩ còn kém một, lại không thuần, nở thì khi sớm khi muộn, hoa thì đóa nhỏ đóa to. Chẳng khác gì Đông Thi giả nhăn mặt, học đòi làm Thập Bát Học Sĩ thì không xong. Vì thế chúng tôi đặt cho cái tên Lạc Đệ Tú Tài.” (Trích trong Thiên Long Bát Bộ, tập 2, trang 495-7 của Kim Dung. Viễn Ảnh xuất bản, Đài Bắc 1981)
Cầu Nhiêm Khách được Lâm Ngữ Đường viết lại theo thể văn mới và đã từng được nhiều người dịch ra tiếng Việt. Bản dịch này chúng tôi căn cứ vào Trung Quốc truyền kỳ tiểu thuyết là một bản dịch qua chữ Hán của Trương Chấn Ngọc, do Đức Hoa xuất bản xã ấn hành năm 1980[1]. Các tài liệu về Đỗ Quang Đình trích trong phần phụ đính bộ Hiệp Khách Hành của Kim Dung do Minh Hà xuất bản năm 1979.
*
* *
Hôm ấy vào khoảng 9 giờ đêm. Lý Tịnh xõa tóc ngồi trên giường, tâm thần phiền não. Chàng là một thanh niên độ ngoài 30, thân hình cao lớn, vai rộng, ngực nở, dáng dấp hiên ngang. Lý Tịnh vừa ăn cơm xong, vươn người để những bắp thịt cuồn cuộn nổi lên như muốn phát tiết cái uất khí trong người. Chàng buồn bực vì trong lòng mang đại chí mà không có dịp nào thi thố.
Sáng sớm nay, chàng đã đến bái yết quan trấn thủ Tây Kinh Dương Tố để trình lên một phương lược cứu nước. Khi thấy gã đường quan béo ị tỏ vẻ thờ ơ không nhìn nhõi gì đến phương sách của chàng, Lý Tịnh lặng yên không nói một lời.
Hồi đó, hoàng đế đang cùng các phi tần nam du Kim Lăng, trao cho họ Dương trấn thủ Tây Kinh. Mang trọng trách như thế mà y nằm dài trên giường, mục hạ vô nhân. Mặt y chẩy xệ như một con heo, môi hơi trề ra, mắt hấp háy, cái mũi to sần sùi thở khìn khịt. Hai mươi mỹ nữ thanh xuân bưng trà và bánh kẹo, cầm phất trần đứng hầu hai bên. Những chiếc phất trần làm bằng lông đuôi ngựa trắng toát, phe phẩy xem ra thập phần an nhàn tự tại.
Lý Tịnh đứng chờ trong lòng khó chịu. Hai mắt chàng sáng ngời, nghĩ đến xã tắc như một trái chín rục rụng lúc nào không biết. Loạn lạc nổi lên như ong, vậy mà nơi đây cái tảng thịt ấy vẫn vui chơi bằng gái đẹp, rượu ngon.
Dương Tố liếc qua danh thiếp, giọng uể oải khó chịu:
- Ngươi là ai?
- Tôi là một người dân thường. Thế nhưng chẳng lẽ tướng quân không thèm tiếp một người học trò có chí khí, muốn thực hành. Đó đâu phải là lễ dùng tiếp đãi một kẻ sĩ.
- Xin lỗi. Mời ngồi.
Ngay lúc ấy, không biết từ đâu thốt ra một tiếng kêu khẽ đầy vẻ kinh ngạc và có tiếng vật gì rơi xuống đất. Lý Tịnh đưa mắt nhìn theo nơi phát ra tiếng động, chàng bắt gặp một thiếu nữ mảnh dẻ mặc áo hồng đang cúi xuống nhặt phất trần nhưng đôi mắt đen láy vẫn đăm đăm nhìn chàng.
- Ngươi định xin ta điều gì?
- Tôi chẳng xin gì cả. Đại nhân có muốn cầu điều gì chăng?
- Ta ư?
Dương Tố cau mặt lại khi nghe giọng chàng thanh niên có vẻ vô lễ.
- Tôi muốn hỏi tướng quân có muốn điều gì chăng. Phương sách cứu nước, kẻ hiền tài chẳng hạn...
- Phương sách à?
Dương Tố trầm ngâm một giây, thở ra miễn cưỡng:
- Đâu nào?
Lý Tịnh rút từ trong bọc ra tập điều trần chàng đã dày công soạn thảo, đưa lên. Dương Tố cầm cuộc giấy để lên một chiếc kỷ thấp gần bên, hững hờ:
- Còn gì nữa không?
Lý Tịnh hơi sẵng giọng:
- Chỉ có thế thôi.
Và chàng cáo từ lui ra. Suốt thoi gian người thanh niên nói chuyện với Dương Tố, cô gái áo hồng nhìn chàng không nháy mắt. Ánh mắt hai người đã mấy lần chạm nhau. Khi Lý Tịnh xoay người để ra cửa, chiếc phất trần vẫn còn nằm trên mặt đất.
Cuộc yết kiến Dương Tố không có gì vui nhưng chàng cảm thấy vui vẻ vì đã gặp được cô gái áo hồng. Cho đến bây giờ khi ngồi trên giường, hồi tưởng lại cô gái, người thanh niên bỗng dưng bật lên mấy tiếng cười.
Thình lình có tiếng gõ cửa nhè nhẹ. Lý Tịnh bất giác giật mình tự hỏi giờ giấc khuya khoắt này còn ai đến thăm? Chẳng lẽ Dương Tố sau khi đọc cuốn sách của chàng? Hé cửa nhìn ra, chàng nhận ra một bóng người mảnh khảnh khoác một chiếc áo tơi, đầu trùm khăn, vai vác một cây gậy, một đầu lủng lẳng bọc vải.
- Ngươi là ai?
- Thiếp là ngươi tì nữ cầm phất trần trong Dương phủ - Ngươi con gái sẽ giọng - Thiếp vào nhà được không?
Lý Tịnh sửa lại áo quần, mời cô gái vào. Thái độ thần bí và cách phục sức làm chàng ngạc nhiên. Nhìn kỹ, cô ta chỉ độ 18, 19 tuổi. Nàng cởi áo tơi để qua một bên. Lý Tịnh sững sờ nhìn thiếu nữ mỹ lệ trong bộ áo hoa chẽn và chiếc quần hồng. Cô gái cúi đầu, hạ chân hành lễ giải thích:
- Xin tiên sinh tha lỗi cho. Hôm nay thiếp gặp tiên sinh khi người vào yết kiến Dương tướng quân và nhờ địa chỉ trên danh thiếp để lại nên thiếp biết được đến bái phỏng.
- Thì ra là thế !
Lý Tịnh thắt lại dây đai, nhìn ra cửa sổ vọng thám một lượt. Ánh mắt cô gái cũng đưa theo.
- Lý tiên sinh, thiếp trốn đi đấy!
- Trốn ư? Không ai đuổi theo sao?
Ngươi con gái nở một nụ cười ngọt ngào và kiều mị:
- Chàng đừng lo. Thiếp có một người bạn gái trẻ tuổi đang mong mỏi địa vị của thiếp nên thiếp đã nhượng cho y. Vả lại, Dương phủ nhiều ngươi, chắc chẳng ai để ý đến thiếp đâu. Tình hình trong phủ cũng như đất nước hiện nay, chẳng ai nghĩ đến việc trung với chủ. Nói thực ra ai cũng hận y, chỉ mong thu vét được chút nào hay chút ấy.
Lý Tịnh moi cô gái ngồi vào chiếc ghế lành lặn nhất nhưng đôi mắt thiếu nữ vẫn đăm đăm nhìn chàng.
- Lý tiên sinh, thiếp đã đọc bài viết của chàng!
- Nàng đọc rồi ư? Nàng thấy sao?
- Thiếp thấy thật uổng cho ngọc để ngâu vầy, đàn gẩy tai trâu.
Lý Tịnh thấy cô gái nói chuyện thật thú vị:
- Y không đọc đến ư?
- Không!
Qua ánh mắt, Lý Tịnh thấy nàng biểu lộ một con ngươi đầy trí tuệ, đôi mắt nhìn chàng như mỉm cười.
- Vì thế nàng có ý định trốn đi, phải không?
Cô gái khoan thai ngồi xuống ghế:
- Để thiếp giải thích đôi lời. Ai ai cũng biết nước sắp mất, nơi nơi đại loạn, chỉ có cái xác biết đi ấy còn mê mê hồ hồ. Trong phủ ai ai cũng hiểu như thế nhưng chưa định được chủ ý đấy thôi.
Ngừng lại vài giây, cô gái nói tiếp:
- Thành ra số người bỏ trốn không phải là ít. Hôm nay vừa gặp chàng thiếp đã thấy đúng như ngươi thiếp hằng mong đợi.
Lý Tịnh quan sát kỹ cô gái thấy nhan sắc tuyệt vời cũng chưa bì kịp với kế hoạch đào tẩu và đầu óc tinh minh, viễn kiến. Chàng biết rằng một khi chiến sự lan đến kinh đô, Dương Tố bỏ chạy hay bị bắt thì thân phận những cô gái như nàng sẽ ra sao. Nếu không bị loạn binh bắt được, ô uế vũ nhục thì cũng bị bán làm nô tì. Ngươi nàng dong dỏng, mắt hơi dài hơn ngươi thường. Gò má hơi cao nhưng khuôn mặt trái xoan càng làm tăng vẻ mỹ lệ.
- Lý tiên sinh, chàng thử xem thân phận nữ nhi chúng tôi phải làm sao bây giờ?
Giọng cô gái thoáng vẻ buồn.
- Tôi quên chưa hỏi quí tính của cô nương?
- Thiếp họ Trương.
- Không có tên ư?
Cô gái trầm ngâm chốc lát, trả lời với vẻ hơi phật ý:
- Cứ gọi thiếp là Hồng Phất.
Nàng nhìn thẳng vào mặt Lý Tịnh:
- Thiếp đã từng gặp hàng trăm, hàng ngàn người đến bái yết Dương tướng quân nhưng chẳng một ai được như chàng.
Cô gái hiển nhiên có chủ ý ra đi không quay trở về và muốn kết duyên cùng Lý Tịnh. Lý Tịnh nếu không cáo tố nàng không thể không lấy nàng làm vợ.
- Nàng có biết, tương lai sẽ rất nhiều gian khổ. Theo chân một võ nhân, nay nơi này mai nơi khác, hành quân chiến trận không một giờ phút an nhàn ư?
- Điều đó, đọc phương sách của chàng thiếp đã hiểu rồi.
- Chỉ mới gặp nhau một lần sáng nay mà nàng đã bằng lòng làm ngươi bạn suốt đời của ta sao?
- Họ Dương thất lễ, chàng dám khiển trách y. Trước nay chưa ai có đảm lượng như thế. Thiếp vẫn hằng tự nhủ phải kiếm được một người lỗi lạc như vậy. Nếu chàng bằng lòng, thiếp quay về lo vài việc rồi trở lại.
Lý Tịnh không một chút do dự, gật đầu. Khoảng một giờ sau cô gái trở lại. Lý Tịnh trong lòng thảng thốt, nửa phần hoan hỉ, nửa phần âu lo. Chàng là một ngươi khách giang hồ, dưới tay không một ai thân tín. Chốc chốc chàng lại nhìn ra cửa sổ xem động tĩnh, có ai đuổi theo không.
Lạ thay, Hồng Phất lại rất trấn tĩnh, cặp mắt luôn luôn nhìn chàng tỏ ra nhu tình vô hạn. Lý Tịnh hỏi:
- Nàng không có ai thân thích ư?
- Không có ai, chẳng còn ai, nếu không đã chẳng phải đến ở Dương phủ. Thế nhưng lúc này thiếp thấy sung sướng vô cùng.
Dù nàng không buột miệng nói ra thì trong đôi mắt những gì uẩn tàng, phấn khởi chứa chất trong nửa ngày qua cũng đã hiện lên tất cả.
- Ta không có một chút danh phận gì, nàng biết không?
- Nhưng chàng có hùng tâm vạn trượng sớm muộn gì cũng thành đại nghiệp.
- Làm sao nàng biết?
- Thì ở phương sách chàng đã viết.
Lý Tịnh cười buồn, không phải vì chàng coi thường văn chương của chính mình. Chàng vẫn tự hào là người đọc nhiều hiểu rộng, thiên tư hơn người. Từ chiến lược tới cách điều binh chàng đều có phép tắc riêng, sáng suốt khác thường.
- Phải rồi, ở phương sách của ta. Quả thực nàng yêu áng văn ấy ư?
- Thật chứ, thiếp thích áng văn đó - hay nói đúng hơn, thiếp thích người viết áng văn đó nhưng Dương tướng quân đã không nhìn nhõi đến, thật là đáng tiếc.
Nàng tiếp tục cho Lý Tịnh hay vì sao nàng yêu chàng, từ nghi biểu anh tuấn đến khuôn mặt vuông vức, dáng dấp hiên ngang, ngực nở vai rộng và đôi mắt trong suốt đầy tú khí. Cả người chàng toát ra không chỗ nào không uy võ, không hùng tráng.
Mấy hôm sau, Lý Tịnh nghe đồn Dương Tố đang sai vệ sĩ đi truy tầm cô gái. Dẫu đó chỉ là chuyện thông thường, Lý Tịnh cũng bắt nàng phải cải nam trang, lên ngựa ra đi. Hồng Phất hỏi:
- Bây giờ mình đi đâu?
- Đến Thái Nguyên thăm một ngươi bạn.
Vào thời buổi nhiễu nhương này, người đi đường xa quả thực nhiều nguy hiểm. Nhưng tin vào khả năng võ nghệ, Lý Tịnh không e ngại gì. Chàng đủ sức đánh bại 10 người miễn là không bị ám toán. Chàng là hạng người mang đại chí, hào hiệp dũng cảm, nhìn thấy nhà Tùy đang sụp đổ, nếu biết kết giao bằng hữu, nghiên cứu thời thế, địa hình để khi có cơ hội thì cử binh mưu đồ đại sự. Lúc bấy giờ những người như chàng không phải là ít và thường cải trang lữ hành, bí mật tìm kiếm anh hùng hào kiệt để làm bạn.
Lý Tịnh cho ngựa chạy nước kiệu, vừa rong ruổi vừa hỏi:
- Nàng có tin vào số mệnh không?
- Chàng nói vậy nghĩa là sao?
- Ta muốn hỏi nàng có tin vào thiên mệnh chăng. Ta có biết một thanh niên là con quan thái thú Thái Nguyên Lý Uyên. Ngươi bạn ta, Lưu Văn Tĩnh rất thân với y, đang cùng y bí mật trù hoạch để dụ cha y tham gia cử binh khởi sự. Lưu Văn Tĩnh kính phục y lắm, tin rằng y chính là Chân Long Thiên Tử.
Hồng Phất kinh ngạc kêu lên:
- Chân Long Thiên Tử?
- Đúng thế !
Đôi mắt Lý Tịnh trông thật nghiêm nghị, nói tiếp:
- Nhất định có một ngày y sẽ lên ngôi hoàng đế. Y khí vũ bất phàm. Nàng có tin vào tướng pháp không?
- Dĩ nhiên thiếp tin chứ. Nếu không thiếp đâu có theo chàng. Thế nhưng hình dáng y có gì đặc biệt khác người?
- Ta cũng không biết nói thế nào đây. Có điều y rất anh tuấn, khôi ngô, hơn hẳn người thường nhưng không sao tả ra được. Một khi y bước vào nhà, nàng sẽ thấy ngay cái nghi biểu của y. Không biết từ đâu đến nhưng có cảm tưởng từ cái khí tương đế vương trời cho. Ta mong rằng nàng sẽ có dịp gặp y, lúc ấy sẽ biết lời nói của ta là thế nào.
- Tên y là gì?
- Lý Thế Dân. Người ta thường gọi y là Nhị Lang vì y là con thứ của Lý tướng quân.
Lý Thế Dân - đó chính là người khai sáng ra Đường Triều, vị Hoàng Đế trong gần 1000 năm qua được toàn dân sùng bái, con người bao gồm cả uy dũng, trí tuệ, nhân đức. Ông ngồi trên ngai vàng mấy chục năm, của một thời đại thái bình, thịnh vượng. Những người như thế có thể do tướng pháp mà nhìn ra được. Đó phải là một người phi thường và có thể lập nên công nghiệp phi thường thì ắt phải có một uy nghi phi thường.
Lý Tịnh và Hồng Phất trọ lại một tiểu điếm ở Linh Thạch. Căn phòng bày biện gọn ghẽ. Tại một góc, trên bếp lửa bừng bừng, một nồi đồ ăn tỏa khói nghi ngút. Hồng Phất đã bỏ nam trang đang chải lại mái tóc dài. Tóc nàng chảy xuống giường và Lý Tịnh thì đang tắm cho ngựa ngoài sân.
Ngay lúc ấy, một người có bộ râu xồm đỏ hung, thân hình tầm thước, cưỡi trên một con lừa gầy gò đi vào trong quán. Y chẳng tỏ ra lễ phép, cũng không buồn để ý đến có đàn bà ở trước mặt, quẳng cái túi da lên nền đất để làm gối rồi nằm duỗi dài cả hai chân nhưng đôi mắt lóng lánh nhìn chăm chăm vào Hồng Phất khiến cho Lý Tịnh phải bực mình. Tuy nhiên chàng thản nhiên chải bờm ngựa, chỉ đưa mắt liếc ngang người khách lạ.
Hồng Phất cũng để mắt nhìn y mấy lần thấy y mặc một bộ quần áo da, một chuôi đao thò ra khỏi thắt lưng. Y toát ra một thần thái uy nghiêm khiến người ta không thể xúc phạm. Vì thế nàng lấy tay vén mái tóc nghiêng người ra hiệu cho Lý Tịnh đừng nổi nóng, cũng đừng để ý đến y làm gì.
Khi chải đầu xong, nàng đi lại trước mặt người khách lạ, ôn tồn hỏi thăm tên tuổi. Người lạ từ từ nhỏm dậy cho hay y họ Trương, hàng thứ ba. Hồng Phất dịu dàng:
- Thiếp cũng họ Trương, vậy hóa ra mình là chỗ họ hàng nhỉ.
- Cô thứ mấy?
- Thiếp là lớn nhất!
- Vậy ta sẽ gọi nàng là Đại muội muội. Hôm nay gặp được một cô em cùng họ. Thật đáng
mừng.
Đến đây, Lý Tịnh bước vào nhà. Hồng Phất gọi:
- Lý Tịnh, lại đây chào Tam ca.
Người khách lạ thái độ thật niềm nở, ngôn ngữ ngọt ngào, cử chỉ thật là đắc thể, tỏ ra một tay giang hồ lịch duyệt. Y đưa mắt nhìn qua hai người và như đã biết rõ tất cả mọi việc của cặp vợ chồng trẻ. Lý Tịnh cũng nhìn qua y biết y cũng thuộc giới như mình. Chàng cũng mong gặp được người như thế để có thể cùng nhau đối ẩm, đàm luận cho thống khoái, sảng trực không phải câu nệ như những ngươi thường gặp hàng ngày. Những người như thế là người khi thời cơ đến có thể cùng nhau mưu việc lớn, sát cánh chung vai, đồng cam cộng khổ chung sức đối phó với kẻ thù.
Gã râu xồm hỏi:
- Nồi đang nấu gì thế?
Hồng Phất đáp:
- Thịt cừu.
- Ta đói rồi.
Nghe vậy, Lý Tịnh vội đi ra mua vài chiếc bánh nướng để cùng ăn trưa. Gã râu xồm rút dao găm cắt thịt, còn xương đút cho con lừa gặm chẳng e ngại gì. Y quay sang Hồng Phất:
- Các ngươi quả là một cặp vợ chồng hạnh phúc. Nghèo mà vui, phải không? Cô làm sao kiếm được anh chàng này đây? Để ta thử đoán xem nhé? Các ngươi nhất định không phải chính thức kết hôn mà ắt từ đâu dẫn nhau trốn đến đây. Ta nói có đúng không? Không đúng ư? Đại muội muội đừng lo.
Giọng gã râu xồm nghe thật thân thiết. Lý Tịnh không chớp mắt nhưng trong lòng hơi lo vì chẳng hiểu sao y lại biết rõ như thế. Từ dung mạo ư? Hay do những móng tay dài của Hồng Phất nói lên cái bí mật của hai người, tỏ ra nàng vốn từ một nơi giàu có?
- Có lẽ anh nói đúng đấy !
Lý Tịnh nói xong cười ha hả, mắt chàng và gã râu xồm chạm nhau. Muốn tìm hiểu gã có mưu đồ gì, chàng nói tiếp:
- Nàng bỏ trốn theo tôi chính như anh nói. Có điều nàng không phải là một nữ nhân tầm thường mà biết rằng thiên hạ sắp có một cơn hồng thủy.
- Hồng thủy ư?
Mắt gã đảo quanh bốn bề.
- Ấy chỉ là một ẩn dụ !
Gã râu xồm nhìn sang Hồng Phất không dấu được vẻ kính phục.
- Các ngươi từ đâu đến?
- Từ kinh đô.
Lý Tịnh điềm nhiên nói thật mắt không rời người khách lạ.
- Có rượu không nhỉ?
- Bên kia đường có một quán rượu.
Gã râu xồm đứng lên đi ra. Hồng Phất không hiểu ý của Lý Tịnh:
- Sao chàng nói cho y biết tất cả vậy?
- Em đừng lo. Giang hồ hảo hán so với bọn làm nghề quan lại nghĩa khí hơn nhiều, mới gặp y nhưng anh biết rằng có thể tâm đầu ý hợp.
- Lúc y cắt thịt anh không có ở đây. Y lấy thịt mà chẳng thèm hỏi em lấy một tiếng rồi đặt
chỗ còn thừa lên bàn chẳng khác gì của y không bằng.
- Đó chính là chỗ hay của hắn. Nếu như hắn thật khiêm cung, giả thân mật thì anh lại chẳng coi y ra gì. Những ngươi như thế không thể đánh giá chỉ qua miếng thịt. Xem ra y có vẻ mến em đó!
- Thiếp cũng thấy như thế!
Gã râu xồm mua rượu về. Mặt gã đỏ, mỗi lần y nói những gân hai bên cổ lại nổi lên. Thanh âm khề khà trầm xuống nhưng lời ăn tiếng nói vẫn rành mạch, không tỏ vẻ say sưa. Luận về các nhóm đang khởi sự hắn chẳng ca tụng ai dường như chẳng ai xứng đáng. Lý Tịnh nghe nhưng lòng vẫn suy nghĩ. Y nhất định cũng là người đang mưu đồ đại sự. Muốn thử lại cái ý thức của y, chàng hỏi:
- Anh xem Dương Tố thế nào?
Gã râu xồm vụt phóng lưỡi dao xuống mặt bàn, cươi ha hả một tràng dài. Lưỡi dao cắm ngập vào gỗ, rung bần bật, ánh sáng lấp lánh một lúc lâu mới ngừng lại:
- Nói tới y làm gì?
- Để xem ý kiến của anh về hắn thế nào?
Lý Tịnh thuật lại cho y việc chàng yết kiến họ Dương rồi cùng Hồng Phất trốn đi kể lại một lượt.
- Các ngươi bây giờ định đi đâu?
- Chúng tôi tính đi Thái Nguyên, tạm ẩn nơi đó một thời gian.
- Ngươi nghĩ có được không? Ngươi có biết Thái Nguyên có một kỳ nhân?
Lý Tịnh nói là chàng có biết một người tên Lý Thế Dân, ai ai cũng cho là chân long thiên tử.
- Ngươi nghĩ người đó như thế nào?
- Y quả thực không phải tầm thường.
Gã râu xồm bỗng dưng mặt đanh hẳn lại. Một lát sau, y hỏi:
- Liệu ta có thể gặp y một lần được không?
- Tôi có một người bạn tên Lưu Văn Tĩnh đối với y thân lắm, có thể nhờ y giới thiệu. Nhưng sao anh lại muốn gặp y?
- Ta có tài xem tướng ít khi sai.
Lý Tịnh không nghĩ đến việc hai người chỉ gặp nhau một lần mà có thể biết được mệnh vận của người kia. Hai người ước định sẽ lên đường đi Thái Nguyên sáng sớm hôm sau, và sẽ gặp nhau tại cầu Phần Dương. Gã râu xồm nhất định giành trả tiền phòng nói là làm quà cho cô em họ.
Sau đó gã leo lên lưng con lừa gầy còm đi mất. Khi hai người quay về phòng trọ, Lý Tịnh nói với vợ:
- Ta tin rằng y nhất định đòi gặp chân long thiên tử hẳn phải có một nguyên nhân trọng đại. Y quả thật là một người lạ lùng.
Đến giờ hẹn, Lý Tịnh gặp gã râu xồm, cùng nhau ăn sáng trong không khí mờ mờ sương phủ của đất Phần Dương rồi lên đường tới Lưu gia. Suốt quãng đường, hai người không nói một câu nhưng cảm thấy thật thân tình, tưởng như tình giữa hai người cùng chí hướng. Lý Tịnh thân thể khôi ngô, hùng tráng còn gã râu xồm thì hành động sảng khoái, lanh lẹ như một kiếm khách lành nghề, hai chân như đầy khí lực, đi hàng trăm dặm xem như trò chơi. Lý Tịnh nghĩ đến kẻ được mệnh danh là chân long thiên tử:
- Anh tin vào tướng diện ư?
- Cốt cách, khí sắc của một con người là biểu hiện của cá tính. Mắt miệng, mũi, cằm, tai đều có mang tinh thần và khí lực trong đó lại thêm khí sắc đậm nhạt, nông sâu - cái gì cũng nói lên được lẽ gặp gỡ, sự thành tựu của con người. Cũng giống như một cuốn sách vậy, có điều ngươi phải biết cách đọc mà thôi. Con người mạnh hay yếu, giảo hoạt hay thành thực, quyết đoán, tàn nhẫn, cơ mẫn, trí trá đều có thể nhìn thấy được. Cái học vấn ấy rất thâm ảo cũng vì cá tính con người là cái gì phức tạp nhất trên đời, phối hợp ngang dọc đủ mọi chiều.
- Nói thế khi sinh ra con người đã có số mệnh rồi sao?
- Cũng không sai hẳn. Không ai có thể chạy khỏi số mệnh cũng như không ai có thể thoát khỏi cái cá tính riêng của mình. Không có thể có hai người khuôn mặt hoàn toàn giống nhau. Con người trong lòng nghĩ gì thì ngoài mặt hiện ra như thế. Không sai một li. Con người sống trên đời, có những việc xảy đến nhưng từ bên ngoài thì ít mà tự mình mời lại thì nhiều.
Càng đến gần nhà họ Lưu, Lý Tịnh thấy gã râu xồm càng tỏ vẻ bồn chồn, hơi thở xem chừng dồn dập. Tới cổng Lưu gia, Lý Tịnh tiến vào trước nói:
- Tôi có một người bạn, người ấy muốn được gặp Lý Nhị Lang. Y là một ngươi xem tướng nổi tiếng, hiện đang đứng chờ trước ngõ.
Lưu Văn Tĩnh nói:
- Xin mời vào ngay.
Lý Tịnh đi ra mời gã râu xồm vào nhà. Lúc đó, Lưu Văn Tĩnh và Lý Thế Dân đã đồng mưu khởi sự nên khi nghe đến người giỏi xem tướng, biết được mệnh vận thì rất muốn gặp. Khi gã râu xồm vào đến nơi, Lưu Văn Tĩnh mời ngồi nghỉ, một mặt dặn người làm cơm trưa và một mặt sai gia nhân đi mời Lý Thế Dân đến.
Chẳng mấy chốc, gã râu xồm nhìn thấy một thanh niên đến, trên người khoác chiếc áo da, đầu ngẩng thẳng, thân thể cao lớn, mặt vui vẻ, nhiệt thành, nếu chỉ bảo là đẹp trai thì chưa đủ. Khi y vừa đến tưởng như có ánh sáng tỏa ra chung quanh, tuy mắt không đảo qua nhưng không vật gì trong nhà mà không nhìn thấy. Mũi y thẳng , sống mũi nổi cao, đầu mũi nhọn, ria mép đỏ và vểnh lên trông tưởng như có thể treo một cánh cung mà không rớt. Lý Tịnh thấy gã râu xồm mắt như chim ưng rình mồi, không rời nhìn ngươi thanh niên cao lớn này để đánh giá. Sau cơm trưa, gã nói với Lý Tịnh:
- Giá như có người bạn đạo sĩ của ta ở đây thì hay biết mấy.
Nói ra tưởng như khó tin nhưng khi hai người ra về, mặt gã râu xồm khác hẳn tưởng như có ai mới đánh y một trận, khiến y cúi đầu ủ rũ, tâm địa bất an. Lý Tịnh hỏi:
- Anh xem Lý Thế Dân thế nào?
Liên tiếp hỏi mấy lần không thấy y trả lời. Mãi về sau, gã râu xồm mới lẩm bẩm trả lời mà tưởng như nói một mình:
- Xem chừng tám chín phần mười y chính là chân long thiên tử rồi. Nhưng cũng phải để người bạn đạo sĩ của ta xem lại đã. Hiện giờ ngươi trọ ở đâu?
Lý Tịnh cho hay họ định ở tại một tiểu điếm nọ.
- Vậy thì các ngươi theo ta.
Gã râu xồm dẫn Lý Tịnh đến trước một quán trọ sang trọng. Y đi vào một lát sau trở ra đưa cho Lý Tịnh một bao giấy, trong đựng toàn bạc vụn ước chừng 3, 40 lượng. Gã nói:
- Đem cái này về mướn cho cô em ta một căn phòng cho tốt nhé.
Lý Tịnh bất giác giật mình.
- Đừng giữ ý làm chi. Cầm lấy.
Lý Tịnh hỏi:
- Anh mới lấy của người ta đấy ư?
Gã râu xồm nghe vậy cười rộ:
- Chủ quán này là bạn ta, ngươi không tin ư? Ta đã dặn y rồi, bất cứ lúc nào ngươi cần cứ việc tới lấy thêm. Ta biết hoàn cảnh các ngươi hiện nay không lấy gì làm khá giả, ta không muốn đại muội muội phải khó khăn. Ta cũng chắc ngươi không ở đấy lâu. Hãy tới Lạc Dương ở với ta. Một tháng nữa ta sẽ chờ các ngươi tại đó.
Gã ngửng đầu lên, bấm ngón tay tính toán một hồi:
- Ngày mồng 3 tháng 2, ta về rồi đấy. Ngươi đến một chuồng ngựa ở phía đông, bên cạnh có một quán rượu nhỏ thì sẽ thấy con lừa của ta và một con la buộc ở bên ngoài thì nghĩa là ta và bạn ta đang ở trên lầu, cứ việc lên thẳng là gặp.
Về tới tiểu điếm, gã râu xồm cũng chưa có ý từ giã mà lại cùng Lý Tịnh vào trong quán. Y đối đãi với Hồng Phất chẳng khác gì em ruột, đối với Lý Tịnh chẳng khác gì anh em. Tối hôm đó, y sai dọn một mâm thịnh soạn mời vợ chồng Lý Tịnh cùng uống, chẳng có ý gì muốn ra đi. Cứ thế ba ngươi uống rượu mãi tới khuya.
- Đại muội muội, cô đừng ngại gì cứ đi ngủ trước.
Y chưa có vẻ muốn đi mà cũng chẳng tỏ vẻ mỏi mệt. Hồng Phất lên giường rồi, mắt mở không ra mà gã cũng vẫn chưa đi. Tới khi trời sáng, Lý Tịnh cũng mệt quá nằm gục xuống bàn mà gã vẫn một mình nói thao thao bất tuyệt. Trời sáng hẳn, gã râu xồm đánh thức Lý Tịnh dậy:
- Ta đến Ngũ Đài Sơn trước, mồng 3 tháng 2 sẽ về Lạc Dương. Ngươi nhất định không được quên nhé, đến lúc đó mang đại muội muội tới.
Đúng kỳ hạn, vợ chồng Lý Tịnh đến Lạc Dương, tìm quán rượu đã chỉ. Thoạt nhìn thấy ngay hai con vật buộc ở bên ngoài, nên bước lên lầu.
- Ta biết thể nào các ngươi cũng đến.
Gã râu xồm đứng dậy đón và giới thiệu hai người với một đạo sĩ, ngươi đạo sĩ mà y bảo là tinh nghiên pháp thuật, thiên văn, tướng pháp có cái sở học có thể quyết định được họa phúc và những việc vô hình. Ông ta rất ôn hòa, nói rất ít, và chăm chú quan sát để đánh giá vợ chồng Lý Tịnh nhưng không để cho hai người biết. Tuy trầm tĩnh nhưng ông ta rất nhiệt tình.
Đột nhiên ông ta nói với Lý Tịnh:
- Ông là người trọng võ khinh văn.
- Quả đúng thế. Thời này cần võ lực hơn là sách vở.
Đạo sĩ mới nói một câu đã đúng khiến Lý Tịnh không khỏi kinh ngạc. Chàng vốn dĩ là người bác lãm quần thư và thuở mới 16, 17 chọn đường văn hay đường võ đã phải tính toán rất nhiều.
Gã râu xồm lúc ấy mới dẫn hai người tới một căn phòng nói rằng:
- Các ngươi cứ ở lại đây, nhất định an toàn vô sự, không phải e ngại gì cả. Cái quán này là của ta, trên lầu sẵn tiền, các ngươi tùy ý muốn tiêu bao nhiêu thì tiêu. Hãy mua cho muội muội vài món đồ.
Thế là Lý Tịnh ở lại trên lầu của tửu quán. Gã râu xồm thường lui tới thăm hỏi, hai người ngồi nói chuyện hồi lâu, bàn luận về chuyện dùng binh đánh trận, khiến cho Lý Tịnh được ích lợi không phải là ít. Cũng chính đó là binh pháp sau này Lý Tịnh dùng trong chiến trận, tinh diệu phi thường. Những điều hai người nói chuyện không phải là chuyện nóng máu hung hăng mà là biết địch, tìm chỗ yếu điểm, một lần tấn công là xong. Cũng như đánh rắn phải đập đầu chứ không đối địch diên trì lấy bao vây làm cho địch khốn đốn. Cứ như thế hai người thảo luận, nghiên cứu, thường tới quá nửa đêm. Còn người đạo sĩ thì đêm đêm quan sát tinh tượng đất Thái Nguyên, tìm xem việc tinh đẩu hội hợp như thế nào, khí sắc mây biến hóa ra sao. Chuyện đó cả gã râu xồm lẫn Lý Tịnh đếu không am tường.
Vài mươi ngày sau, đạo sĩ nói muốn đến gặp Lý Thế Dân.
Gã râu xồm nói:
- Xin người bạn của ngươi giới thiệu cho gặp Lý Thế Dân được chăng? Ta muốn y nói cho ta biết rốt ráo Lý Thế Dân có thực là chân long thiên tử hay không? Một lời của y nói ra thì mọi sự đều quyết định được cả.
- Nếu như y thực là chân long thiên tử, thì anh định sao? Đánh nhau với y chăng? Hay liên hợp với y?
Gã râu xồm đáp:
- Ta không tranh giành với vận mệnh.
Lý Tịnh hỏi tiếp:
- Thế liên hợp với y ư?
Gã râu xồm hiểu ý, cươi ha hả. Y đưa ra một câu ngạn ngữ:
- Đồ ngốc. Thà làm đầu gà, đâu làm đuôi trâu.
Thế là cả bọn kéo đến Thái Nguyên. Tới nơi, họ giới thiệu với Lưu Văn Tĩnh đạo sĩ là người xem được tinh tướng đoán việc vị lai. Lưu Văn Tĩnh lúc ấy đang cùng bạn đánh cờ, nên mời đạo sĩ ngồi xuống tiếp người bạn, còn y đứng dậy viết một phong thư, cho người đi mời Lý Thế Dân sang xem. Gã râu xồm cùng Lý Tịnh đứng một bên quan chiến.
Một lát sau, Lý Thế Dân đến, bình thản ngồi xuống bên cạnh, không nói một lời. Đó chính là phép xem đánh cờ. Gã râu xồm lấy tay khều Lý Tịnh. Thời ấy là lúc anh hùng thiên hạ mang đao, đeo kiếm nhưng chân long thiên tử so với người thường cũng có khác. Đạo sĩ tuy để hết tinh thần vào bàn cờ trước mặt, nhưng thực ra là đang quan sát người có chân mệnh đế vương kia không sót một hơi thở, để xem cái cái khí tượng hơn người ở chỗ nào ngõ hầu tính toán, trù liệu.
Lý Thế Dân điềm nhiên ngồi coi, hai vai xuôi xuống, hai tay để trên đầu gối. Mắt y chăm chú nhìn vào bàn cờ, đôi lông mày đen nhánh thỉnh thoảng động đậy, hai mắt như có ánh sáng chiếu ra, tưởng chừng nhìn xuyên qua mọi việc. Chừng năm phút sau, đạo sĩ lấy tay đẩy bàn cờ ra, nói với Lưu Văn Tĩnh:
- Thế cờ này thua hẳn rồi, nhất định như thế. Không có cách gì cứu vãn được. Con tốt của ông đi hay lắm, đi thật hay, tôi không bì kịp.
Trên thực tế, bàn cờ chưa có gì nguy ngập như lời đạo sĩ nói là không phương cứu vãn, nhưng xem chừng y không muốn phí thêm khí lực, nên đứng dậy, thở dài một tiếng.
Ba người khách hướng về chủ nhân cáo từ rồi ra đi.
Đến bên ngoài, đạo sĩ nói với gã râu xồm:
- Ngươi thua thật rồi. Người có chân mệnh đang ngồi trong đó. Không nên để phí khí lực. Bất quá, ngươi nên đi tìm phương khác mà chinh phục.
Lần đầu tiên Lý Tịnh thấy gã râu xồm lưng như còng xuống, hai vai buông xuôi. Gã đang trải qua một cơn biến hóa nội tâm.
- Đại thế nếu đã biến rồi thì kế hoạch của ta cũng phải đổi theo. Các ngươi ở Lạc Dương cho ta. Nửa tháng sau ta sẽ quay trở lại.
Gã râu xồm nói xong, một mình đi mất. Lý Tịnh không tiện hỏi thêm, cùng đạo sĩ trở về Lạc Dương. Khi gã râu xồm quay trở lại, y nói với Hồng Phất:
- Ta muốn đưa cô em đến thăm nội nhân. Đại muội muội, ta có một món muốn giao cho cô và Lý Tịnh.
Từ trước đến nay, Lý Tịnh chưa hề biết gã ở đâu nên thấy việc y làm hơi khác thường. Gã đưa hai người đến một căn phòng có một cánh cửa gỗ nhỏ. Đi vào tầng thứ nhất thì thấy một tòa đại sảnh, xây dựng thật hoa lệ bề thế. Vài chục đầy tớ trai gái đứng hai bên. Hai người được dẫn vào gian phía đông là nơi để khách rửa mặt. Từ đài gương đến cổ kính, bồn thau và các cây đèn thủy tinh, tủ áo đều là những đồ tuyệt hảo. Các vật dụng không gì không quí giá.
Một lát sau, gã râu xồm cùng vợ đến. Gã giới thiệu phu nhân với vợ chồng Lý Tịnh. Bà ta độ chừng hai mươi tuổi, vô cùng xinh đẹp, cùng trượng phu tiếp đãi hết sức thân mật, nhiệt thành. Đến giờ ăn, nhạc nữ đến đánh đàn, ca khúc thật êm tai, Lý Tịnh từ trước chưa được nghe bao giờ. Sau khi ăn uống xong, đầy tớ tiến vào mang độ chừng hơn chục mâm gỗ, trên phủ nhiễu vàng cùng xếp vào chân tường phía đông. Sau khi xếp xong, gã râu xồm mới nói cùng Lý Tịnh:
- Có món này tặng cho các ngươi.
Gã đưa tay lấy các khăn che ra, Lý Tịnh nhìn thấy thì ra trên các mâm đầy văn kiện, khế ước, các sổ sách giấy tờ và mấy chiếc chìa khóa lớn.
Gã râu xồm nói:
- Kể cả các châu báu trong nhà, giá trị ước chừng mươi vạn lượng, đều cho ngươi cả, chớ có từ chối. Ta vốn dĩ đã trù liệu một kế hoạch, tích trữ tiền bạc để khi thời cơ đến thì tổ chức quân đội, mua sắm võ khí mong lập thành đại nghiệp. Thế nhưng bây giờ không còn dùng đến nữa. Lý Nhị Lang đất Thái Nguyên, ta tin chắc rằng chính là chân long thiên tử. Ngươi lấy những thứ này đem phò tá y để hoàn thành công nghiệp vĩ đại. Nếu phò tá y, đừng quên binh pháp ta đã truyền thụ. Chỉ năm năm, mười năm sau, Lý Thế Dân sẽ chinh phục xong Trung nguyên, ngươi nên trung tâm giúp y để chung hưởng phú quí. Còn phần ta đã có mưu tính riêng. Mười hai năm sau, nếu như ngươi nghe thấy bên ngoài biên cương Trung quốc, có ngươi chinh phục dị vực, kiến quốc xưng vương thì ắt là ngươi bạn cũ của ngươi đấy. Đến lúc đó, ngươi cùng đại muội muội hướng về đông nam uống mừng ta một chén.
Kế đó y hướng về các nam nữ tì bộc và gia nhân nói:
- Từ nay trở đi, Lý tiên sinh là chủ của các ngươi. Những gì của ta đều thuộc về y cả, em gái ta là nữ chủ nhân mới của các ngươi.
Sau khi gã râu xồm chính thức dặn dò xong, y quay về thay đổi trang phục lữ hành cùng vợ cưỡi ngựa ra đi, chỉ có một người đầy tớ trai theo hầu, từ đó không ai gặp lại y nữa.
Vài năm sau, Lý Tịnh đông chinh tây chiến, giúp nhà Đại Đường thống nhất toàn quốc. Sau khi Lý Thế Dân lên ngôi hoàng đế, thiên hạ thái bình. Lý Tịnh được giao chức vụ quan trọng, thống soái ba quân. Một hôm y đọc các công văn quân đội, có người tại phương Nam Trung quốc, đem 4, 5 vạn quân từ ngoài biển kéo vào nước Phù Dư, chinh phục toàn quốc rồi xưng đế. Gã râu xồm không chịu làm kẻ vô danh trong nước nên tới nơi xa xăm, làm vua một cõi. Y từng lập chí làm vua một phương nay đã thành.
Chiều hôm ấy, Lý Tịnh về đến nhà nói lại cho Hồng Phất nghe.
- Quả thật y là một hào kiệt không chịu kém ai.
Vợ chồng Lý Tịnh không quên lời dặn của người bạn cũ lúc chia tay. Ăn cơm xong, hai ngươi đốt hai ngọn hồng lạp, đứng trông về phương nam nâng ly chúc mừng ngươi bằng hữu thuở xưa.
Hồng Phất nói:
- Sao chàng không vì y mà hết sức, tỉ như xin hoàng thượng ban cho y một tước hiệu gì?
- Không nên làm phiền y. Hoàng thượng phong thưởng không làm cho y thích thú. Dù ở nơi nào y cũng muốn là ngươi chí tôn vô thượng.
Nói rồi chàng thở dài:
- Quả thực anh hùng hảo hán.
Hết
Đăng ký:
Nhận xét (Atom)